Nếu như đến với Cách mạng, Chế Lan Viên nhận thấy mình
"Đi xa về hóa chậm/ Biết bao là nhiêu khê" thì với Tế Hanh, ông có vẻ
thảnh thơi hơn. Dễ hiểu là sau thời "Hoa niên", hành trang của Tế
Hanh khá gọn nhẹ. Tế Hanh cũng thuộc típ nhà thơ có lối sống, lối nghĩ thuần
hậu, dễ thích ứng với môi trường cuộc sống mới. Trước đây, cảm hứng thơ của ông
chủ yếu thoát thai từ đời thực (hơn là từ sách vở). Sau này, mọi sự vẫn vậy. Tế
Hanh là một trong những nhà thơ tiền chiến hiếm hoi khi đến với Cách mạng đã
không phải thay đổi nhiều về lối viết. Hãy cứ hình dung: Nếu các bài "Quê
hương", "Lời con đường quê", "Chiếc rổ may" của Tế
Hanh không được in ra vào các năm 1938, 1939 (là năm ông sáng tác chúng) thì
những bài ấy vẫn hoàn toàn có thể in được trên các ấn phẩm báo chí cách mạng
sau Tháng Tám 1945 mà không hề sợ mang tiếng là "trà trộn tiêu tiền cũ
trong chế độ mới".
Nhà thơ Tế Hanh: Lạt mềm buộc chặt
PHẠM KHẢI
Có một thời, nếu chọn 5 gương mặt tiêu biểu của nền thơ
đương đại Việt Nam,
các nhà phê bình thường nhắc tới: Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên và
Tế Hanh. 5 nhà thơ ứng với 5 ngón tay trên một bàn tay - một bàn tay được coi
là "nắm đấm thép" của nền thi ca cách mạng. Trong 5 ngón tay ấy, vị
trí có thể được sắp xếp lại giữa các ngón từ thứ 2 tới thứ tư, nhưng vị trí
ngón cái (thuộc về Tố Hữu) và ngón út (ứng với Tế Hanh) thì dường như không thay
đổi.
Vẫn biết, mọi sự
so sánh đều khập khiễng, và những ai đã yêu thơ Tế Hanh thì tình yêu ấy hẳn sẽ
rất bền bỉ, thủy chung, song quả là xét trên một số bình diện (như sự
phong phú về đề tài, sự đa dạng trong bút pháp, hay sức khái quát hiện thực),
tầm vóc của Tế Hanh có phần khiêm nhường hơn so với các nhà thơ nói trên. Là
tác giả của 15 tập thơ, song Tế Hanh chưa có tập nào thật nổi trội và gây tác
động mạnh tới cả nền thơ kiểu như "Việt Bắc" của Tố Hữu, "Ánh
sáng và phù sa" của Chế Lan Viên, "Trời mỗi ngày lại sáng" của
Huy Cận, "Riêng chung" của Xuân Diệu. Không thật nổi trội song hầu
như ở tập thơ nào của Tế Hanh, bạn đọc cũng bắt gặp một đôi bài thơ hay. Có vẻ
như trong cuộc chạy đua đường trường, Tế Hanh đã biết cách dưỡng sức để bảo
toàn năng lượng cho mình? Bởi vậy mà cùng với độ lùi của thời gian, bỏ qua hàng
loạt những bài thơ xốp xoáp, hời hợt của Tế Hanh, ta sẽ thấy những gì ông để
lại cho đời không hề ít ỏi.
Năng khiếu thi ca của Tế Hanh phát lộ sớm (Tế Hanh từng kể:
Khi đọc hai câu thơ của Lưu Trọng Lư: "Đêm ấy, xuân vừa sang/ Em vừa
hai mươi tuổi", ông bĩu môi: "Những hai mươi tuổi", ý chê
như vậy là… già). Ở tuổi 17, 18, Tế Hanh đã viết nên những thi phẩm từng được
nhiều người nắc nỏm: Đó là các bài "Lời con đường quê", "Những
ngày nghỉ học", "Quê hương" - 3 trong số 4 bài mang nhãn mác Tế
Hanh được Hoài Thanh, Hoài Chân chọn đưa vào cuốn hợp tuyển "Thi nhân Việt
Nam". Năm 1939, nhà văn Nhất Linh đã viết trên Báo Ngày nay: "Có thể
gọi hai bài thơ "Quê hương" và "Những ngày nghỉ học" là hai
bài thơ hay của thi ca Việt Nam và hai bài đó xác định giá trị về nhà thơ Tế
Hanh".
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới Nước bao vây cách biển nửa ngày sông Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang Cánh buồm trương, to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
Bạn đọc ngày nay chắc không mấy ai còn thấy được sự mặn mòi,
hấp dẫn của những câu thơ mang đậm yếu tố tả thực được tác giả viết ra cách đây
trên bảy chục năm. Sóng gió thời gian đã bào mòn, đã làm hư hại rất nhiều con -
thuyền - thơ được cấu tạo bởi những chất liệu không bền vững, không đủ sức
đương đầu với những chuyến "đi xa" như vậy. Vả chăng, cũng vẫn chủ đề
ấy, lối viết ấy sau này đã bị chính Tế Hanh vượt qua bởi những bài thơ có giai
điệu quặn siết hơn, hình ảnh lấp lánh hơn, khơi gợi hơn (đơn cử như bài
"Nhớ con sông quê hương"). Riêng hai bài "Lời con đường
quê" và "Những ngày nghỉ học" là còn giữ nguyên được sức hút ban
đầu. Đó là những bài có ý tưởng, cấu tứ lạ, thuộc loại hiếm gặp trong thơ ca cổ
kim.
Hãy xem, trước Tế Hanh, đã có ai chứng kiến nỗi đau tê tái
chia ly trên một sân ga mà "nghe ra" được từ cái khối sắt thép đồ sộ
của một đoàn tàu nỗi u ẩn của con người: "Bánh nghiến lăn lăn quá nặng
nề/ Khói phì như nghẹn nỗi đau tê/ Lâu lâu còi rúc nghe rền rĩ/ Lòng của người
đi réo kẻ về" (bài "Những ngày nghỉ học")? Thơ ca Việt Nam
không hiếm những câu viết về cảnh chia ly hay đến mức ám ảnh lòng người, song
nghe tiếng còi tàu rúc lên thống thiết mà liên tưởng tới "Lòng của người
đi réo kẻ về" thì cảm xúc thật là mãnh liệt. Khó có thể tưởng tượng nó
được cất lên từ tâm hồn một cậu bé mới 17 tuổi.
Trước Tế Hanh, chưa ai "nghe ra" như vậy và sau Tế
Hanh cũng không ai dám trùng lắp, vì đó là những câu mang dấu ấn riêng độc đáo.
Cũng vậy, đến nay, thơ Việt đã đi vào nhiều chủ đề ngóc ngách, các thi sĩ sẵn
sàng bóc tách mình ra để sắm nhiều vai, song hóa thân làm "Lời con đường
quê" để ca ngợi cảnh đẹp bình dị, dân dã của quê hương gần như vẫn là
"độc quyền" của Tế Hanh. Đọc những câu: "Tôi, con đường nhỏ chạy
lang thang/ Kéo nỗi buồn không dạo khắp làng/ Đến cuối thôn kia hơi cỏ vướng/
Hương đồng quyến rũ hát lên vang", ta thấy thiên nhiên dù chỉ hiện lên với
đôi nét đơn sơ song vẫn có sức mê hoặc... Hơi thơ tạo cảm giác rất thân gần, dù
rằng cái việc để hương đồng cất lên tiếng hát ít nhiều mang dấu ấn của thơ
tượng trưng Pháp (thuyết tương giao của Baudelaire: "Hương thơm, màu sắc
và âm thanh tương giao cùng nhau").
Với sự góp mặt của "Những ngày nghỉ học", của
"Lời con đường quê", của "Quê hương", năm 1940, tập "Nghẹn
ngào" - tập thơ đầu tay của Tế Hanh (sau được tác giả bổ sung thêm một số
bài và đổi tên thành "Hoa niên", xuất bản lần đầu năm 1945) đã được
nhận giải khuyến khích của nhóm Tự Lực văn đoàn. Việc một tập thơ có những bài
từng được vị chủ soái của Tự Lực văn đoàn viết bài ngợi khen, nay lại chỉ được
trao một giải ở thứ hạng thấp như vậy ắt có lý do? Thật ra, mọi sự cũng đơn
giản thôi: Ngoài những bài hay như đã nói, ở phần còn lại của "Hoa
niên", tác giả trẻ đã để "lộ thiên" tất cả những gì mà người đời
vẫn coi là… dở: Đề tài vụn vặt, tình cảm tầm thường, chữ nghĩa gượng ép, ý
tưởng rối rắm, giai điệu rời rạc…(nhiều chỗ có cách bắt vần, ngắt câu, độn chữ
rất dễ dãi, kiểu như: "Em trông đám đậu/ Cao hơn đám lúa/ Như anh cao
hơn/ Em nửa cái đầu" - bài "Cánh đồng bao la"; "Bạn
ơi, đây của, đây lòng/ Xin đem tặng bạn tặng không đủ rồi" - bài
"Trao đổi"). Cũng "may", tập thơ ra đời vào lúc phong trào
Thơ Mới đang tuột dốc, người đọc quay lưng với thơ, tiếp đó ít tháng là sự kiện
Cách mạng Tháng Tám long trời lở đất. Vậy nên gần như không còn mấy ai để tâm
đến sự xuất hiện của "Hoa niên", kể cả cái được lẫn cái rất… chưa
được của nó. Bản thân Tế Hanh, là tác giả song cũng phải 9 năm sau, từ cuộc
kháng chiến chống Pháp trở về, lần đầu tiên ông mới nhìn thấy đứa con tinh thần
của mình. Sau này, Tế Hanh cũng chỉ chọn mươi bài (trong số 40 bài) ở "Hoa
niên" để đưa vào tập thơ tuyển của mình (NXB Văn học ấn hành năm 1987). Tỉ
lệ ít vậy mà vẫn còn… "sạn".
Nếu như đến với Cách mạng, Chế Lan Viên nhận thấy mình
"Đi xa về hóa chậm/ Biết bao là nhiêu khê" thì với Tế Hanh, ông có vẻ
thảnh thơi hơn. Dễ hiểu là sau thời "Hoa niên", hành trang của Tế
Hanh khá gọn nhẹ. Tế Hanh cũng thuộc típ nhà thơ có lối sống, lối nghĩ thuần
hậu, dễ thích ứng với môi trường cuộc sống mới. Trước đây, cảm hứng thơ của ông
chủ yếu thoát thai từ đời thực (hơn là từ sách vở). Sau này, mọi sự vẫn vậy. Tế
Hanh là một trong những nhà thơ tiền chiến hiếm hoi khi đến với Cách mạng đã
không phải thay đổi nhiều về lối viết. Hãy cứ hình dung: Nếu các bài "Quê
hương", "Lời con đường quê", "Chiếc rổ may" của Tế
Hanh không được in ra vào các năm 1938, 1939 (là năm ông sáng tác chúng) thì
những bài ấy vẫn hoàn toàn có thể in được trên các ấn phẩm báo chí cách mạng
sau Tháng Tám 1945 mà không hề sợ mang tiếng là "trà trộn tiêu tiền cũ
trong chế độ mới". Sự thực thì về nội dung, bài "Quê hương" có
gì là không khỏe khoắn, lành mạnh so với "Đoàn thuyền đánh cá" của
Huy Cận? Và "Lời con đường quê" có gì thiếu trách nhiệm với làng xã,
thôn dân so với "Anh chủ nhiệm" của Hoàng Trung Thông? Phải thấy rõ
điều này thì mới cắt nghĩa được tại sao Tế Hanh có thể dễ dàng hòa nhập với
Cách mạng và có được những gặt hái như vậy, trong khi có bậc kiện tướng của
phong trào Thơ Mới, sau Cách mạng năng lực sáng tác trồi sụt nghiêm trọng. Tất
cả là do sự thích ứng nội tại của từng nhà thơ. Vậy nên đừng gán ghép "công
ơn của Cách mạng" trong trường hợp Tế Hanh, cũng như đừng qui kết các tác
giả không làm được những điều như ông là "thiếu mặn mà" với chế độ
mới.
Trong "Thi nhân Việt Nam",
nhà phê bình Hoài Thanh đã mở đầu bài viết về Tế Hanh bằng một câu: "Tôi
thấy Tế Hanh là một người tinh lắm". Chắc không phải nói về cái "tinh"
của đôi mắt, của sự quan sát cảnh trí, sự vật thông thường, bởi nói thế thì sau
này biết giải thích thế nào về việc nhà thơ của chúng ta lâm vào tình trạng mù
dở, rồi mù hẳn, trong khi thơ ông vẫn tiếp tục ra đời và chinh phục bạn đọc.
Cái "tinh" ở đây là sự tinh tế, nhạy cảm của một hồn thơ trước vẻ đẹp
thiên nhiên, vẻ đẹp của con người, của tình đời; cái "tinh" của
"Nơi mắt nhìn không tới/ Thì lòng ta đến thay" (thơ Chế Lan
Viên viết tặng Tế Hanh). Chính cái nhìn của tấm lòng đã giúp Tế Hanh
"thấy" được: "Mùa thu đã đi qua còn gửi lại/ Một ít vàng
trong nắng trong cây/ Một ít buồn trong gió trong mây/ Một ít vui trên môi
người thiếu nữ", "thấy" được: "Lá phong đỏ như mối
tình đượm lửa/ Hoa cúc vàng như nỗi nhớ day dưa/ Làn nước qua ánh mắt ai đưa/
Cơn gió đến bàn tay em vẫy" (bài "Bài thơ tình ở Hàng
Châu"). Cũng chính cái nhìn của tấm lòng khắc khoải không yên trước nỗi
đau đất nước bị cắt chia đã giúp nhà thơ viết nên những câu thơ âm điệu nhẹ
nhàng mà giàu sức lay động: "Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị/ Tận
chân trời mây núi có chia đâu" (bài "Nói chuyện với sông Hiền
Lương"), giúp ông "nhìn" ra được từ bước chân của những người
phụ nữ bán rau tươi: "Xuân từ ngoại thành vào nội thành/ Từng bước,
từng bước, từng bước xanh…" (bài "Gặp xuân ngoại
thành").
Đối với những người làm thơ, không gì cũ bằng viết về mây
bay, gió thổi, nước chảy, hoa trôi, trăng lên, trăng lặn, cây xanh, lá vàng…
Thơ Tế Hanh đầy rẫy những hình ảnh trên. Điều lạ là ông đã "phù phép"
thế nào mà có lúc chúng hiện lên quyến rũ và ám ảnh lạ thường. Đó là:
Trời màu xanh nước cũng xanh màu Sợi gió đến se cùng sợi liễu Sao ta vẫn một mình lẻ thiếu Em ở đâu rồi em ở đâu?
(bài "Em ở đâu?")
là:
Nông trường ta rộng mênh mông: Trăng lên trăng lặn vẫn không ra ngoài
(bài "Nông trường cà phê")
là:
Cuối thu trăn g vẫn sáng trưng Hoàng lan hoa sữa thơm lừng không gian Hồ Tây, Hoàn Kiếm, Thuyền Quang Nước thu sóng sánh soi hàng mây bay Nhớ về Hà Nội hôm nay Cây me cây sấu có thay lá vàng? Con chim én đã về Nam Giục anh trở lại cầm bàn tay em
(bài "Nhớ về Hà Nội hôm nay")
Nguyễn Du đã viết rồi "Người buồn cảnh có vui đâu bao
giờ". Thì ra, sức hấp dẫn của thơ Tế Hanh còn là ở sự quấn quyện giữa
thiên nhiên và tình người. Thiên nhiên trong thơ ông không bao giờ trơ trọi một
mình!
Tế Hanh được xem là người có nhiều câu thơ thoạt nghe tưởng
như vu vơ, nhưng ngẫm kỹ lại sâu sắc, thấm thía, đụng tới chốn sâu xa của hồn
người:
Không em anh chẳng biết mình Không ngày hôm ấy đời thành ra sao?
(bài "Không ngày hôm ấy")
Phố này anh đến tìm em Người qua lại tưởng anh tìm bóng cây
(bài "Hà Nội vắng em").
Ông cũng được tiếng là người giỏi tạo dựng tứ thơ. Ngoài bài
"Vườn xưa" tương đối dài một chút, đa phần những bài có tứ đặc sắc
đều rất ngắn:
Cơn bão nghiêng đêm Cây gãy cành bay lá Ta nắm tay em Qua đường cho khỏi ngã
Cơn bão tạnh lâu rồi Hàng cây xanh thắm lại Nhưng em đã xa xôi
Và cơn bão lòng ta thổi mãi
(bài "Bão").
Nhiều bài trong đó là thơ tứ tuyệt. Có bài nêu nỗi tủi phận
trong sinh hoạt tuổi già:
Nhớ bạn ngày xuân tìm đến bạn Về hưu nhà chật, cảm thêm tình Thuở xưa đá bóng hai hai đứa Cờ tướng nay anh đánh một mình
(bài "Đánh cờ một mình")
Quyển sách đầu giường lạc đã lâu Đến khi tìm lại mất trang đầu Bụi nhòa dán gặm thương cho sách Quên cả thương mình đọc được đâu.
(bài "Thương sách")
Có bài nêu cảm giác ngất ngây, hoặc chống chếnh từ một cuộc
tình:
Biển một bên em một bên Ta đi trên bãi cát êm đềm Thân buông theo gió, hồn theo mộng Sóng biển vào anh với sóng em
(bài "Sóng")
Em gần gũi, em xa xôi Sao em như thể chân trời trước anh? Đưa tay tưởng với được tình Bước đi tới mãi mà mình vẫn xa
(bài "Em gần gũi, em xa xôi").
Tứ thơ là gì? Đã có nhiều định nghĩa thế nào là tứ thơ. Theo
tôi, một bài có tứ thường gây bất ngờ ở câu kết. Câu kết có sức nâng dậy toàn
bài; từ câu kết, người đọc hiểu ra ý nghĩa toàn bài. Những bài không hay ở tứ
mà chỉ hay ở chữ, chỉ cần thay chữ ấy bằng chữ khác là… hỏng. Với những bài hay
ở tứ, người ta có thể diễn đạt lại cái tứ ấy bằng những chữ khác dài hơn, nôm
na hơn, song vẫn khiến độc giả có thể lĩnh hội được cái hay của nó (nói những bài
thơ có tứ dễ dịch sang ngôn ngữ khác là vì thế). Những bài thơ có tứ hay của Tế
Hanh đều thể hiện được điều này.
Viết lời bạt cho "Tuyển tập Tế Hanh" (NXB Văn học,
1987), Chế Lan Viên đã khéo léo nhắc tới hạn chế của người bạn thơ: "Tế
Hanh không chỉ là nhà thơ, anh là công dân, chiến sĩ như nhân dân mình. Cố
nhiên các việc ấy không ngăn chúng tôi trong đó có Tế Hanh viết bao nhiêu bài
thơ dở". Đúng là, có một thời gian dài, như các bậc cây đa cây đề khác, Tế
Hanh cũng đã xem thơ ca như một thứ công cụ để ông thể hiện trách nhiệm công
dân của mình. Ông làm thơ chống giặc càn; tuyên truyền về cải cách ruộng đất;
kêu gọi tổng tuyển cử; phản đối Mỹ ném bom đánh phá miền Bắc vv và vv…Tế Hanh viết
kịp thời nhưng có phần dễ dãi. Ông kém Chế Lan Viên ở khả năng phân tích, bình
luận sự việc và thua xa Tố Hữu ở tầm khái quát hiện thực. Vũ Quần Phương đã rất
hóm khi nhận xét về mảng thơ chính luận và đả kích của Tế Hanh: "Anh đánh
địch nhiều khi cũng tới tấp nhưng không có đòn hiểm". Kể ra, nói vui thì
vậy chứ gọi loại thơ này là thơ "đánh địch" e chưa phải. Thơ
"đánh địch" đúng nghĩa là phải đưa ra được những sự việc cụ thể, với
những chi tiết "đắt giá", để rồi từ sự việc mà tố cáo bản chất. Thơ
Tế Hanh phần lớn là những lời lẽ mang tính miệt thị đối tượng, kiểu như: "Lũ
giặc ác kia ơi"; "Vài thằng ngu đi theo lũ giặc",
"Bọn chó mặt người chúng giết em", "Bọn tay sai
giặc Mỹ/ Lũ cú vọ ăn đêm", "Thằng Thiệu tên tay sai tồi tệ
nhất/ Tên Việt gian dòi bọ rúc chuồng xia". Với cách viết này, nên
gọi đó là thơ… chửi địch thì đúng hơn?
Tạng thơ của Tế Hanh khiến ông trở nên rất "núng
thế" khi rời xa biên giới tâm hồn mình. Ông khó viết được hay những đề tài
không liên quan tới những vui buồn riêng tư của cá nhân ông. Những bài hay nhất
viết về chủ đề đấu tranh thống nhất của Tế Hanh như "Nhớ con sông quê
hương", "Chiêm bao", "Em ở đâu?" đều ít nhiều được
chưng cất từ những kỷ niệm riêng và mất mát riêng của chính bản thân tác giả.
Các cụ ta thường nói "sểnh nhà ra thất nghiệp".
Đọc thơ Tế Hanh, tôi có cảm tưởng "sểnh thơ hay ra… thơ dở", nghĩa là
ở ông ít có loại thơ nằm giữa hai loại này. Thì tôi chẳng đã đặt vấn đề ở phần
đầu bài viết này rồi: "Có vẻ như trong cuộc chạy đua đường trường, Tế Hanh
đã biết cách dưỡng sức để bảo toàn năng lượng cho mình?". Thơ Tế Hanh một
khi đã hay thì gần như cả bài đạt tới độ hoàn mỹ, mà đã không hay thì hiếm khi
ông chịu để sót trong đó những câu đặc sắc (không như trường hợp Hàn Mặc Tử,
Xuân Diệu, Chế Lan Viên…, ngay trong những bài trung bình của họ, bạn đọc cũng
có thể bắt gặp những câu hay). Có vẻ như Tế Hanh là người sẻn so. Ông không dám
phung phí tài năng. Thơ Nguyễn Trác có câu: "Chúng ta trẻ như những người
trẻ nhất/ Chúng ta già hơn các bậc tiền nhân". Nếu như ở những bài thơ hay
của Tế Hanh (kể cả những bài ông viết từ lúc còn rất ít tuổi), ta luôn thấy một
tay nghề vững vàng, già dặn thì ở những bài thơ dở của ông, ta lại thấy một sự
chuệch choạc như thể của người mới võ vẽ bước vào nghề thơ.
Nhà phê bình văn học Hồng Diệu, trong một bài viết về thơ
Xuân Diệu từng phải thốt lên là anh rất ngạc nhiên khi thấy một nhà thơ lớn mà
lại có lúc sơ ý như thế …Với cách đặt vấn đề như của Hồng Diệu, hẳn anh sẽ còn
nhiều lần ngạc nhiên hơn khi đọc thơ Tế Hanh (đọc những bài thơ dở của Tế Hanh,
có thể sẽ có người nghi ngờ vị trí nhà thơ lớn của ông, song ở đời, suy cho
cùng, tầm vóc một nhà thơ được tính trên cơ sở những bài hay chứ đâu phải ở những
bài dở). Những bài thơ hay của Tế Hanh có đặc điểm chung là không cao giọng. Nó
thủ thỉ đi vào lòng người; nhẹ nhàng mà lắng đọng, một thứ "lạt mềm buộc
chặt".
Dẫu không mạnh về khả năng thuyết lý song Tế Hanh cũng đã
nhiều lần giãi bày quan niệm của mình về nghệ thuật nói chung và về thơ ca nói
riêng. Ông viết trong bài "Trả lời thay Tề Bạch Thạch" (danh họa
Trung Quốc): "Vẽ cá thật hơn cá/ Vẽ hoa thật hơn hoa/ Cụ học trường
nào thế?/ - Ta học trường lòng ta". Vẫn biết, làm thơ và vẽ
tranh là hai nghề khác nhau, và cách trả lời kiểu trên nghe cũng hơi… mông
lung, trừu tượng, nhưng quả là với những bài thơ hay của Tế Hanh, không thể có
chuyện "học" mà làm được. Nó là sự chưng cất của tâm hồn, như dòng
suối trong tự thanh lọc mình qua mấy tầng sỏi cát; như con trai dưới đáy biển
ngậm nỗi đau để hóa ngọc. Nó không nương tựa vào bất cứ thứ gì ngoài một tâm
hồn đa cảm, dễ xúc động của một thi sĩ. Hãy nghe Tế Hanh tâm tình cùng Xuân
Diệu (bài "Nhớ Xuân Diệu"):
Mọi khi đến nhà anh Tôi gọi to: - Diệu ơi! Nghe anh trả lời: - Hanh đó hả?
Hôm nay đến nhà anh Tôi gọi thầm: - Diệu ơi! Và chỉ nghe tiếng tôi: - Diệu ơi!
Thơ là gì, ở đâu, nếu không phải là tiếng vọng từ chốn thẳm
sâu nhất của trái tim con người?
Phùng Gia Lộc người nhỏ thó, ốm yếu, gầy gò; nước da xanh xám, thở lúc nào cũng nặng nhọc, khò khè suốt ngày vì bị hen suyễn nặng… Thế nhưng, bên trong con người có bề ngoài mảnh khảnh ốm o ấy lại luôn là một tấm lòng nồng hậu, một tinh thần sục sôi chống lại cái ác, không chịu được sự bất công, ngang ngược của bọn quan lại, cường hào mới… Giai đoạn quyết liệt nhất, sau khi đăng “Cái đêm hôm ấy đêm gì”, Phùng Gia Lộc phải trốn ra Hà Nội… Tôi vẫn nhớ như in cái cảnh về quê của Phùng Gia Lộc sau những ngày trốn tránh. Vợ anh chạy từ đâu về không biết, mặt mày hốt hoảng, tất tả, tiêu điều không khác gì chị Dậu trong Tắt đèn ngày trước. Mấy đứa con ngơ ngác, lạ lẫm trước đoàn khách xe pháo, hàng hóa lềnh kềnh đầy một khoảng sân đất trước nhà. Nhà anh xiêu vẹo hơn nhà chị Dậu…
Khi xe Vũ xuống dốc cầu qua địa phận xã Ngọc Châu thì phải dừng lại, vì chiếc xe tải phía trước thắng gấp để tránh hai phụ nữ đèo nhau bất chợt vượt qua mặt vào mép đường. Cũng vừa lúc đó phía sau xe Vũ có một chiếc xe tải lớn chở than của một công ty ở thị xã Hòn Gai (Quảng Ninh) do tài xế Nguyễn Công Thành lái, chạy với tốc độ lớn xuống dốc cầu, không kịp thắng đã lao đâm vào phía trái đuôi xe của Vũ. Bị tác động bởi một lực quá lớn, vợ chồng Doãn Châu ngồi sau lái xe ngã bổ vào thùng xe, còn vợ chồng Quỳnh - Vũ và con trai Quỳnh Thơ ngồi bên phải bị hất tung lên khỏi xe rơi xuống mặt đường.
Tôi rất ngạc nhiên khi tôi vừa đưa mấy bài viết lên trang, có kẻ đã nhắn vào điện thoại tôi: “Câm mồm đi thằng già!”. “Muốn ăn bánh ô tô không?”. Trên mạng xã hội, xuất hiện một số người xuyên tạc, thóa mạ, cho là tôi kích động chiến tranh rồi vu đòn chính trị. Kỳ lạ vậy …
Báo Dân Việt đưa tin: “Chiều 3.3, bà Nguyễn Phương Hằng, Phó Tổng giám đốc Công ty Du lịch Đại Nam , cho biết chính thức kiện ông Minh Diện vì cố tình xâm phạm đời sống riêng tư và bịa đặt nhằm làm nhục người khác. Ngoài ra, ông Minh Diện còn bị tố không có văn hóa và hủy hoại danh dự người khác không phải riêng với vợ chồng ông Huỳnh Uy Dũng - bà Nguyễn Phương Hằng ( ảnh bên ) mà kể cả một số cá nhân. Bà Nguyễn Phương Hằng cho biết: “Ông Minh Diện đã lôi kéo một số người nhằm phá hoại khu du lịch Đại Nam đang hoạt động. Tôi tin luật pháp nghiêm minh sẽ trừng trị thích đáng những kẻ chuyên đi phá hoại cuộc sống bình yên của người khác”. Được biết, ông Minh Diện đã có nhiều bài viết đăng trên blog B. liên quan đến một số cá nhân và gần đây ông Minh Diện có bài viết “Ân oán còn lâu”. Theo vợ ông Huỳnh Uy Dũng, bài viết toàn là những chuyện bịa đặt, hư cấu nhằm bôi nhọ, xúc phạm nhân phẩm và vu khống, phá hoại hạnh phúc gia đình vợ chồng ông đồng thời phá hoại hoạt động sản xuất kinh...
Ngụy biện hay lỗi ngụy biện (fallacy) trong thảo luận và trình bày ý kiến là một vấn đề nghiêm trọng, xảy ra trên bình diện đại số đông người Việt, không chỉ ở cả dân thường mà kể cả các vị có bằng cấp, học thức, hot bloggers hay như từ cách lý luận báo chí trong nước vốn là một núi ngụy biện. Ngụy biện (fallacy) nguy hiểm hơn, còn khiến người nhiễm phải nó có một lối tư duy suy nghĩ và phân tích vấn đề sai lệch. Người càng ít tranh luận thì càng khó có khả năng phát hiện lỗi ngụy biện trong tư duy của mình để chỉnh sửa. Đó là lý do ta thấy nhiều người ít nói, nhưng một khi mở miệng thì sẽ đuối lý và kết quả là chỉ biết chửi thề, xúc phạm, tấn công cá nhân người khác mà thôi. Chúng ta thử xem xét vài ngụy biện của những người tham gia buổi “đấu tố” mang tên “Chia sẻ trên mạng xã hội để làm gì?” trong chương trình “60 phút mở” của VTV đang gây xôn xao dư luận.