Theo ông Nghiêm Xuân Sơn, nhà văn Vũ Trọng Phụng sinh ra và
lớn lên ở Hà Nội, nhưng quê gốc ở Mỹ Hào - Hưng Yên. Sinh thời, gia cảnh nhà
văn rất nghèo, cái nghèo "gia truyền" như lời nhà văn Ngô Tất Tố đã
nói. Trong bài viết có tựa đề "Gia thế ông Vũ Trọng Phụng" đăng trên
Tạp chí văn học Tao Đàn số tưởng niệm Vũ Trọng Phụng, có sự tham gia của các
cây bút lừng danh thời ấy như Tam Lang, Nguyễn Tuân, Lưu Trọng Lư, Lan Khai,
Trương Tửu, Thanh Châu, Nguyễn Triệu Luật, nhà văn Ngô Tất Tố cảm thán:
"Trong các nhà văn hiện thời, ông Phụng là người nghèo lắm. Khác hẳn những
ông Trần Tế Xương và Nghiêm Phúc Đồng, cái nghèo của ông là thể nghèo "gia
truyền" không phải "nghèo lỏi". Những người hiếu danh thường hay
giấu giếm gia thế, nếu như tiền nhân của họ không có người nào hiển đạt. Ông
Phụng không có óc ấy. Chính ông kể cho tôi nghe tổ phụ của ông chỉ làm lý trưởng,
thân phụ ông chỉ là một người thường dân và đã tạ thế khi ông mới 7 tháng tuổi,
tổ phụ ông mới ngoài 60. Ở nơi quê quán, ông không có một tấc đất cắm dùi".
Cuộc đời kỳ lạ của cha đẻ “Xuân tóc đỏ”
MỸ TRÂN
Hơn 70 năm sau ngày thôi “ở trọ trần gian”, nhà văn Vũ Trọng
Phụng, cha đẻ của những nhân vật tiểu thuyết độc đáo bậc nhất thế kỷ XX như
Xuân tóc đỏ, Thị Mịch, Nghị Hách… vẫn để lại cho hậu thế vô vàn câu chuyện đầy
ám ảnh xoay quanh cuộc đời ngắn ngủi nhưng đặc biệt sống động của ông. Kỷ niệm
100 năm ngày sinh nhà văn Vũ Trọng Phụng (20/10/1912 - 20/10/2012), gia đình,
người thân, bè bạn và cả độc giả lại chia sẻ với nhau nhiều hồi ức về ông,
truyền tai nhau những giai thoại kỳ lạ về bậc tài danh từng được xưng tụng “ông
hoàng phóng sự đất Bắc”…
1.
Qua cổng làng Giáp Nhất còn nguyên phong vị cổ, cái ồn ào
náo nhiệt của phố phường Hà Nội bỗng ngưng đọng, lùi lại phía sau. Hỏi đường
vào nhà ông Nghiêm Xuân Sơn, một người đàn bà đang lúi húi với bữa cơm chiều mau
mắn chỉ dẫn. Đã qua tuổi "xưa nay hiếm" từ lâu, ông Nghiêm Xuân Sơn trông
vẫn còn nhanh nhẹn, tráng kiện. Thành lệ, khách tìm đến nhà hỏi chuyện văn
chương, lại được ông đưa ra khu tưởng niệm của gia đình, viếng phần mộ nhà văn
Vũ Trọng Phụng.
Làm rể nhà văn, lấy bà Vũ Mỵ Hằng, người con gái duy nhất
của Vũ Trọng Phụng từ năm 1956, ông Sơn đã cùng vợ phụng dưỡng chăm sóc cả bà
nội vợ (mẹ nhà văn Vũ Trọng Phụng) và mẹ vợ (cụ Vũ Mỵ Lương - vợ nhà văn). Cũng
sinh sống tại làng Giáp Nhất gần cầu Mọc, ông Sơn quen bà Hằng khi bà mới 16
tuổi, rồi chờ cho đủ 18 tuổi là kết hôn. Từ đó, ông Sơn đã cáng đáng trọng
trách trau chuốt gìn giữ di sản văn chương quý giá mà bố vợ mình - nhà văn Vũ Trọng
Phụng để
lại.
Theo ông Nghiêm Xuân Sơn, nhà văn Vũ Trọng Phụng sinh ra và
lớn lên ở Hà Nội, nhưng quê gốc ở Mỹ Hào - Hưng Yên. Sinh thời, gia cảnh nhà
văn rất nghèo, cái nghèo "gia truyền" như lời nhà văn Ngô Tất Tố đã
nói. Trong bài viết có tựa đề "Gia thế ông Vũ Trọng Phụng" đăng trên
Tạp chí văn học Tao Đàn số tưởng niệm Vũ Trọng Phụng, có sự tham gia của các
cây bút lừng danh thời ấy như Tam Lang, Nguyễn Tuân, Lưu Trọng Lư, Lan Khai,
Trương Tửu, Thanh Châu, Nguyễn Triệu Luật, nhà văn Ngô Tất Tố cảm thán:
"Trong các nhà văn hiện thời, ông Phụng là người nghèo lắm. Khác hẳn những
ông Trần Tế Xương và Nghiêm Phúc Đồng, cái nghèo của ông là thể nghèo "gia
truyền" không phải "nghèo lỏi". Những người hiếu danh thường hay
giấu giếm gia thế, nếu như tiền nhân của họ không có người nào hiển đạt. Ông
Phụng không có óc ấy. Chính ông kể cho tôi nghe tổ phụ của ông chỉ làm lý trưởng,
thân phụ ông chỉ là một người thường dân và đã tạ thế khi ông mới 7 tháng tuổi,
tổ phụ ông mới ngoài 60. Ở nơi quê quán, ông không có một tấc đất cắm dùi".
Ông Nghiêm Xuân Sơn kể, ngay trước ngày Hội Nhà văn Việt Nam
chính thức tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh Vũ Trọng Phụng (ngày 22/10 vừa
qua), con gái nhà văn Ngô Tất Tố đã mang bản copy bài báo có tuổi đời hơn 70
năm đến tặng gia đình ông. Nhà văn Ngô Tất Tố còn viết tiếp: "Tôi biết ông
từ thời làm Báo Công dân, cách đây độ 4, 5 năm chi đó. Hồi đấy có lẽ là hồi
quẫn bách nhất trong đời ông, vì rằng, ngoài làm Báo Công dân ông không còn chỗ
làm nào khác, mà Báo Công dân thì lại chỉ là cơ quan của một bọn anh em nhà văn
nghèo dúm rau dúm bếp làm với nhau, ít khi trả tiền in rồi trong két có được
tiền thừa mà trả cho người cầm bút.
Thế nhưng, ông cũng không tỏ ra mình cần tiền. Mỗi khi ở Gia
Lâm sang tòa báo, ông cứ cặm cụi cuốc bộ đi, cuốc bộ về, hôm nào mỏi lắm mới
lấy 5 xu đi xe. Một điều quan trọng nữa là đời ông luôn thấy sự túng thiếu,
nhưng không lúc nào ông tự đem sự túng thiếu của mình mà làm phiền lụy người
nào, dù khi túng thiếu cực điểm cũng vậy".
Cái nghèo đeo bám, khiến Vũ Trọng Phụng lao vào viết như một
người nông phu đang vào vụ, không thể ngơi tay vì sợ bỏ lỡ tiết trời. 27 năm
cuộc đời, lăn lộn vào chốn văn chương chừng 10 năm, ông đã kịp để lại cho hậu
thế một gia tài đồ sộ, hơn 30 truyện ngắn, 9 tiểu thuyết, 9 phóng sự dài, 7 vở
kịch và nhiều bài bình luận văn chương, xã hội sâu sắc… Lao lực do làm việc
nhiều, lại không có điều kiện để chăm sóc y tế kịp thời, Vũ Trọng Phụng mắc
bệnh lao phổi. Bệnh nặng, tự chữa trị thuốc thang ở nhà nên bệnh tiến triển
càng nhanh, ngay cả sức trẻ tuổi 20 cũng phải đầu hàng số mệnh.
Nhà văn Ngô Tất Tố (1893 - 1954) - người bạn vong niên từng
khóc thương cho số kiếp của Vũ Trọng Phụng: "Ông đau từ mấy năm trước.
Trước khi chết độ 6 - 7 tháng, ông đã có một đêm nguy kịch. Sáng sớm hôm sau
ông cho gọi tôi lên nhà thăm bệnh và nói cho tôi biết rằng: Chiều hôm trước một
viên bác sĩ chữa bệnh cho ông đã khuyên ông đi nhà thương. Trong đêm vừa rồi
ông đã làm sẵn mấy bản chúc thư. Ông bị đau phổi, vẫn sốt hâm hấp, ho ra đờm
đặc. Từ mấy bữa trước không thể gượng ngồi dậy mà chỉ nằm được một bên sườn. Ho
cũng đau, nói cũng đau, hễ trở mình thì trong sườn nghe có tiếng óc ách.
Bấy giờ người ông tuy đã tiêu nước, nhưng mạch hai tay vẫn
còn có lực. Sau khi coi mạch và hỏi các chứng, tôi kê cho ông bài "nhị
thang trần" hợp bài "nung thang" gia một lạng ý dĩ và dặn ông
uống một ngày hai thang. Sáng mai tôi lại lên thăm ông, ông khoe với tôi bệnh
đã bớt nhiều, có lẽ không chết. Từ đó ông uống mãi đơn ấy, tuy thỉnh thoảng
cũng thay đổi ít nhiều, nhưng đại thể vẫn không ngoài hai phương thuốc trước.
Một tháng sau ông đã dậy được, đã đến thăm tôi ở Báo Thời vụ. Đau ngực, đau
sườn, tiếng nước óc ách, khỏi cả, chỉ có cái sốt hâm hấp không khỏi và sắc mặt
ông vẫn xanh như người hết máu".
2.
Cầm cự được một khoảng thời gian ít ỏi trong cảnh túng thiếu
cùng cực, nhà văn Vũ Trọng Phụng về cõi vĩnh hằng ngày 13/10. Bạn bè văn chương
ngày ấy đã mô tả đám tang ông một cách hết sức thê lương, ảm đạm trong một ngày
thu trong veo, đẹp trời. Ai cũng ái ngại cho gia đình của nhà văn, thương cảm
người vợ trẻ và đứa con gái duy nhất chưa đầy một tuổi.
Thi hài Vũ Trọng Phụng được an táng tại nghĩa trang Thanh
Xuân, sau này là khu vực mà người dân Hà Nội quen gọi là Cao, Xà, Lá. Mất chồng
khi tóc còn đương xanh, bà Vũ Mỵ Lương, vợ nhà văn Vũ Trọng Phụng đã ở vậy, lần
hồi nuôi con, nuôi mẹ chồng. Bà Lương người ngay làng Giáp Nhất, là con gái nhà
giàu, danh giá xinh đẹp nhưng đã chấp nhận làm vợ một anh nhà văn nghèo, cả đời
bươn chải trong kiếp ở nhà thuê.
Năm 1956, chàng trai trẻ Nghiêm Xuân Sơn về làm rể
nhà văn, bắt đầu chặng đường dài toan lo cho đại gia đình vợ. Giai đoạn ấy, mẹ
đẻ của nhà văn vẫn còn mạnh khỏe, vui sống cùng con dâu, cháu nội, cháu rể và
các chắt. Ông Nghiêm Xuân Sơn nhớ lại, một người con trai của ông ngay lúc còn
nhỏ xíu, bị bệnh nặng đã trút hơi thở cuối cùng ngay trên tay cụ nội. Năm 1964,
đến lượt cụ bà mẹ đẻ nhà văn qua đời. 12 năm sau, năm 1976, bà Vũ Mỵ Lương, vợ
nhà văn tìm về đoàn tụ bên chồng sau hơn 30 năm âm dương cách biệt.
Ông Nghiêm Xuân Sơn đã tốt nghiệp Đại học Sư phạm, sau học
thêm bằng kế toán rồi về làm việc bên Tổng cục Đường sắt. Bà Vũ Mỵ Hằng ở nhà
đan len, xoay trở chăm con, chăm chồng. Ông Sơn bảo khu đất mà ông đang ở cùng
các con rể và cháu ngoại, có mộ phần Vũ Trọng Phụng nguyên là của gia đình vợ
nhà văn, sau này được ông Sơn đứng ra mua thêm rồi một tay xây sửa.
Dù không có dính líu gì tới văn chương, nhưng ông Nghiêm
Xuân Sơn đã sớm ý thức được tầm vóc lừng lững và gia tài vô giá của bố vợ trong
chốn văn chương. Công việc sưu tầm các hiện vật liên quan đến Vũ Trọng Phụng đã
được vợ chồng ông Sơn, bà Hằng thực hiện từ sớm. Do hoàn cảnh khách quan, nhiều
lần phần mộ nhà văn Vũ Trọng Phụng phải di dời, chuyển chỗ, cho đến năm 1983,
vợ chồng ông Sơn đã đưa ra một quyết định táo bạo: Chuyển mộ phần nhà văn về an
táng tại khu đất của nhà ở ngay làng Giáp Nhất. Trước đó, khi nghĩa trang Thanh
Xuân bị giải tỏa, xây dựng khu công nghiệp Cao, Xà, Lá, ông Sơn đưa mộ phần bố
vợ về mảnh ruộng của dòng họ trên cánh đồng làng. Cánh đồng bị đánh bom, xơ
xác, nhà văn lại được con cháu đưa về nghĩa trang Quán Dền.
Cuối cùng, khi nghĩa trang Quán Dền cũng bị thu hồi đất để
xây cống thoát nước, mà ông Sơn hồi ức, đấy chính là khu vực đường Lê Văn Lương
ngày nay, vợ chồng ông xin ý kiến Hội Nhà văn Việt Nam, chuyển mộ phần cha về
ngay khu đất đai hương hỏa của gia đình để tiện chăm nom.
Trên diện tích chừng 300m2, ông Nghiêm Xuân Sơn
xây dựng nên một khu tưởng niệm riêng biệt, độc đáo, ấm cúng, thanh bình cho bố
vợ và những người gần gũi, thân yêu nhất của nhà văn. Mộ phần nhà văn đã trở
thành địa chỉ giàu ý nghĩa với người dân làng Giáp Nhất, với những người yêu
mến văn chương, độc giả say mê tác phẩm của Vũ Trọng Phụng và cả nhiều thế hệ
sinh viên, nghiên cứu sinh văn khoa các trường đại học.
Cảm kích trước sự tận tâm, chu đáo của vợ chồng con
gái, con rể Vũ Trọng Phụng, nhà phê bình - GS-NGND Hoàng Thiếu Sơn trong một
bài viết đọc trước mộ phần nhà văn đã tha thiết: "Từ ngày ấy không còn
mong được đọc gì thêm của Vũ Trọng Phụng nữa, chúng ta chỉ còn mỗi một ước
mong: Vũ Trọng Phụng có được một mộ phần xứng đáng với cống hiến của mình cho quốc
văn và cho dân tộc, để những kẻ hậu sinh được đến thăm viếng, tưởng niệm và tri
ân. Ước mong ấy mọi người giữ mãi trong lòng, cả trong những năm tháng tối tăm
mà bóng đen ngột ngạt đè lên toàn bộ sự nghiệp của Vũ Trọng Phụng. Cuối cùng
ngày 1/5/1988, Vũ Trọng Phụng đã trở về nơi chôn rau cắt rốn của mình (thôn
Giáp Nhất, xã Nhân Chính, huyện Từ Liêm, Hà Nội), nơi mình đã sống phần lớn
cuộc đời thật ngắn để viết ra những tác phẩm thật dài, đã sống và còn sống rất
lâu dài, sống mãi mãi trên đất nước chúng ta. Có thể tìm đâu cho Vũ Trọng Phụng
một mộ phần tốt hơn cái phần đất làng Mọc này".
Nhà phê bình Hoàng Thiếu Sơn khẳng định: "Sở dĩ phần mộ
nhà văn Vũ Trọng Phụng cùng cụ thân mẫu và người bạn đời của mình đã hoàn thành
là do bao công sức, sự hy sinh tận tụy của chị Vũ Mỵ Hằng, con gái nhà văn và
chồng là anh Nghiêm Xuân Sơn. Đây không chỉ là việc làm riêng cho gia đình để
thỏa lòng mong mỏi của con cháu, mà còn làm cho cả xã hội, để đáp lại nguyện
vọng của bao nhiêu người xưa nay ngưỡng mộ nhà văn".
Bà Vũ Mỵ Hằng, giọt máu duy nhất mà nhà văn Vũ Trọng Phụng
để lại cõi trần gian cũng qua đời năm 1996. Từ ngày vợ mất, ông Nghiêm Xuân Sơn
đã từ TP HCM trở ra, ở hẳn Giáp Nhất để tiện bề coi sóc trông nom mộ phần những
người thân. Khu tưởng niệm gồm cả phần mộ của nhà văn Vũ Trọng Phụng luôn sạch
sẽ, khang trang và tạo một cảm giác ấm áp vì luôn được gần bên cháu con, luôn
có tiếng người vào ra thăm viếng.
Cả đời lo cho gia đình vợ, đến giờ này, nguyện vọng duy nhất
của ông Sơn chỉ là, được Nhà nước công nhận, xếp hạng khu tưởng niệm và mộ phần
nhà văn Vũ Trọng Phụng, để ông được đường hoàng gắn vào đó 3 chữ "Cấm vi
phạm": "Đất đai giờ là toàn đất vàng, đất kim cương, lúc này cháu con
tôi đang ngoan, đang tử tế. Biết đâu sau này đến lúc tôi nằm xuống, chúng nó
lại đổi ý, muốn bán khu đất này thì sao. Tôi giữ là giữ cho con cháu, giữ cho
Nhà nước, giữ lại một địa chỉ văn hóa giàu tâm tưởng trong lòng người. Vậy nên,
tôi chỉ xin Nhà nước cho 3 chữ "Cấm vi phạm”.
Nguồn: An Ninh Thế Giới số ra ngày thứ bảy 10-11-2012
Phùng Gia Lộc người nhỏ thó, ốm yếu, gầy gò; nước da xanh xám, thở lúc nào cũng nặng nhọc, khò khè suốt ngày vì bị hen suyễn nặng… Thế nhưng, bên trong con người có bề ngoài mảnh khảnh ốm o ấy lại luôn là một tấm lòng nồng hậu, một tinh thần sục sôi chống lại cái ác, không chịu được sự bất công, ngang ngược của bọn quan lại, cường hào mới… Giai đoạn quyết liệt nhất, sau khi đăng “Cái đêm hôm ấy đêm gì”, Phùng Gia Lộc phải trốn ra Hà Nội… Tôi vẫn nhớ như in cái cảnh về quê của Phùng Gia Lộc sau những ngày trốn tránh. Vợ anh chạy từ đâu về không biết, mặt mày hốt hoảng, tất tả, tiêu điều không khác gì chị Dậu trong Tắt đèn ngày trước. Mấy đứa con ngơ ngác, lạ lẫm trước đoàn khách xe pháo, hàng hóa lềnh kềnh đầy một khoảng sân đất trước nhà. Nhà anh xiêu vẹo hơn nhà chị Dậu…
Khi xe Vũ xuống dốc cầu qua địa phận xã Ngọc Châu thì phải dừng lại, vì chiếc xe tải phía trước thắng gấp để tránh hai phụ nữ đèo nhau bất chợt vượt qua mặt vào mép đường. Cũng vừa lúc đó phía sau xe Vũ có một chiếc xe tải lớn chở than của một công ty ở thị xã Hòn Gai (Quảng Ninh) do tài xế Nguyễn Công Thành lái, chạy với tốc độ lớn xuống dốc cầu, không kịp thắng đã lao đâm vào phía trái đuôi xe của Vũ. Bị tác động bởi một lực quá lớn, vợ chồng Doãn Châu ngồi sau lái xe ngã bổ vào thùng xe, còn vợ chồng Quỳnh - Vũ và con trai Quỳnh Thơ ngồi bên phải bị hất tung lên khỏi xe rơi xuống mặt đường.
Tôi rất ngạc nhiên khi tôi vừa đưa mấy bài viết lên trang, có kẻ đã nhắn vào điện thoại tôi: “Câm mồm đi thằng già!”. “Muốn ăn bánh ô tô không?”. Trên mạng xã hội, xuất hiện một số người xuyên tạc, thóa mạ, cho là tôi kích động chiến tranh rồi vu đòn chính trị. Kỳ lạ vậy …
Báo Dân Việt đưa tin: “Chiều 3.3, bà Nguyễn Phương Hằng, Phó Tổng giám đốc Công ty Du lịch Đại Nam , cho biết chính thức kiện ông Minh Diện vì cố tình xâm phạm đời sống riêng tư và bịa đặt nhằm làm nhục người khác. Ngoài ra, ông Minh Diện còn bị tố không có văn hóa và hủy hoại danh dự người khác không phải riêng với vợ chồng ông Huỳnh Uy Dũng - bà Nguyễn Phương Hằng ( ảnh bên ) mà kể cả một số cá nhân. Bà Nguyễn Phương Hằng cho biết: “Ông Minh Diện đã lôi kéo một số người nhằm phá hoại khu du lịch Đại Nam đang hoạt động. Tôi tin luật pháp nghiêm minh sẽ trừng trị thích đáng những kẻ chuyên đi phá hoại cuộc sống bình yên của người khác”. Được biết, ông Minh Diện đã có nhiều bài viết đăng trên blog B. liên quan đến một số cá nhân và gần đây ông Minh Diện có bài viết “Ân oán còn lâu”. Theo vợ ông Huỳnh Uy Dũng, bài viết toàn là những chuyện bịa đặt, hư cấu nhằm bôi nhọ, xúc phạm nhân phẩm và vu khống, phá hoại hạnh phúc gia đình vợ chồng ông đồng thời phá hoại hoạt động sản xuất kinh...
Ngụy biện hay lỗi ngụy biện (fallacy) trong thảo luận và trình bày ý kiến là một vấn đề nghiêm trọng, xảy ra trên bình diện đại số đông người Việt, không chỉ ở cả dân thường mà kể cả các vị có bằng cấp, học thức, hot bloggers hay như từ cách lý luận báo chí trong nước vốn là một núi ngụy biện. Ngụy biện (fallacy) nguy hiểm hơn, còn khiến người nhiễm phải nó có một lối tư duy suy nghĩ và phân tích vấn đề sai lệch. Người càng ít tranh luận thì càng khó có khả năng phát hiện lỗi ngụy biện trong tư duy của mình để chỉnh sửa. Đó là lý do ta thấy nhiều người ít nói, nhưng một khi mở miệng thì sẽ đuối lý và kết quả là chỉ biết chửi thề, xúc phạm, tấn công cá nhân người khác mà thôi. Chúng ta thử xem xét vài ngụy biện của những người tham gia buổi “đấu tố” mang tên “Chia sẻ trên mạng xã hội để làm gì?” trong chương trình “60 phút mở” của VTV đang gây xôn xao dư luận.