Nhà phê bình Nguyễn Hoàng Đức băn
khoăn: “Khi nhà văn Mạc Ngôn được giải Nobel, nhà thơ Trần Đăng Khoa có viết bài
đại ý: trong thời gian gần đây anh thấy không mấy cuốn hay vượt hơn những tác
phẩm của Mạc Ngôn như “Mông to vú nở” hoặc “Đàn hương hình”. Anh Khoa nói thế,
có lẽ anh chưa đọc và quan tâm đến những tác phẩm như “Anh em nhà Caramadop”
của Dostoievski, hay “Vụ kiện” của Kafka… Tôi nói thế không hề võ đoán mà dựa
trên những hiện thực của văn chương Việt Nam. Để hiểu được những tác phẩm
trên, người ta phải uyên thâm thần học, tôn giáo, và công lý ở mức tiền hiến
pháp. Tôn giáo, thần học, công lý phổ quát chưa bao giờ là mối quan tâm của
người Việt cả, vì người Việt sống chủ yếu theo “phép vua thua lệ làng”, và
“chuông làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Phải nói mặt bằng
tri thức của các cây bút Việt còn rất lẹt đẹt, thuyền thúng bơi khỏi ao làng,
ra đại đương được vài chuyến, tưởng sẽ trưởng thành nào ngờ toàn đi mua ụ nổi,
tầu cũ về kiếm mấy đồng lãi cò con. Làm sao hiểu được lộ trình của những con
tầu phá băng đi tìm những vỉa quặng mới cho nhân loại?”
VĂN HỌC VIỆT NAM CÓ CƠ HỘI
SOI GƯƠNG
NGUYỄN HOÀNG ĐỨC
Văn học Việt quả rất cần soi
gương, bởi lẽ sự phản tỉnh của người Việt xưa nay vẫn rất yếu đuối vì dựa trên
tâm trí văn hóa tiểu nông nhũn nhẽo cảm xúc, lý trí bấy bớt, thiếu đào tạo về
kỹ năng tư duy phản tỉnh, quen tự hào vặt vãnh, rồi mắc chứng đố kỵ tủn mủn
không muốn ai hơn mình, ngay cả con lợn nhà khác cũng không nên có quyền lớn nhanh
hơn con lợn nhà mình. Dân trí chung đã thế, xét vào giới văn học, lại chủ yếu
là các nhà thơ sản phẩm của đời sống nông nhàn, dong chơi vu vơ không có mục
đích chính yếu nào của cuộc đời lớn hơn việc nhàn tản, nhưng vẫn tranh thủ vừa
du hí vừa lượm lặt kiếm tí danh nhà thơ-nhà văn… Nói dài dòng nhưng có thể chốt
lại một câu: trên bình diện chung, chưa có một phản tỉnh nào chính thức của
giới văn học Việt Nam
về trình độ tác phẩm văn học của mình. Nói thế này có lẽ chưa được khách quan
lắm, công bằng mà nói, mới đây nhà thơ Hữu Thỉnh Chủ tịch Liên hiệp các hội văn
học và nghệ thuật đã nói đại ý “thế hệ của chúng tôi không có tác giả lớn.
Trong ao không có cá to chúng ta đành bắt tép”. Nhưng đây vẫn chỉ là một sự
phản tỉnh hiếm hoi muộn mằn, trà dư tửu hậu nhiều hơn là chính thức xác nhận.
Vậy còn các thế hệ sau ông thì sao? Những 5x, 6x, 7x, 8x, rồi 9x liệu đã sủi
tăm một dấu hiệu nào khả dĩ làm cây bút lớn cỡ văn hào hoặc thi hào chưa?
Đây chúng ta hãy thử lắng nghe
những phản tỉnh của các văn nhân lớn của Trung Quốc:
1-Tôn
Trung Sơn, lãnh tụ lập thuyết của Trung Quốc, có trình độ học vấn khá cao, bằng
bác sĩ, biết tiếng Đức, tiếng Nhật, tác giả cuốn “Chủ nghĩa tam dân” đã phản
tỉnh: Sách Trung Quốc chỉ rặt bạo lực và
hận thù, càng đọc ít sách Trung Quốc càng tốt. Không đọc gì là tốt nhất.
2-Lỗ Tấn, được coi là cha đẻ của văn học hiện đại Trung
Quốc, học vấn cao, biết nhều ngoại ngữ. Ông phản tỉnh: Người Trung quốc chỉ giỏi ăn thịt người. Câu phản tỉnh này bao hàm
nghĩa rất rộng, giỏi ăn thịt người tức là trình độ còn dã man hoang rợ lắm, nói
gì đến văn hóa hay văn học?
3-Nhà
văn võ hiệp Kim Dung, một người nổi tiếng đến mức, người Trung quốc nói “không
thể là người Trung Quốc nếu chưa đọc kiếm hiệp của Kim Dung”. Vậy mà tại lễ
sinh nhật thứ 80 của mình ông tự nhận: “Tôi
chỉ là Á văn học”.
Xét thấy, văn hóa của Kim Dung
rất cao, ông không vì quá nổi tiếng mà thấy mình thế nọ thế kia. Có một câu rất
phổ biến trong bóng đá mà tuần nào chúng ta cũng được nghe rằng “Phong độ là nhất thời, đẳng cấp là mãi mãi”.
Nhà văn Kim Dung đã nhận ra điều đó, rằng dù ông có nổi tiếng bao nhiêu, những
với văn học võ hiệp chỉ có đâm chém, không chuyển tải những ý tưởng hoài bão về
lý tưởng hay giá trị con người, văn học của ông chỉ là hạng hai. Chỉ là á văn
học thôi. Tại sao văn học Việt không tự mình soi gương mà cứ phải soi gương
Tầu? Bởi như trên đã nói, vì đời sống lý trí suy xét và phản tỉnh của người
Việt rất thấp, chúng ta không soi mình vào những thước đo, vì thế nhân có thước
đo của nước láng giềng khổng lồ bên cạnh, là một cơ hội rất cần thiết cho chúng
ta. Kim Dung đã vậy, thử hỏi mấy tác giả của ta, in ra mấy cuốn sách lèo tèo,
được chục nghìn bạn đọc, đã đăng đàn tuyên bố hoành tráng này nọ, lại còn nhận
vơ mình hậu hiện đại, lên giọng tự hào và dạy dỗ người khác cả những điều mình
không hề có như cách tân, nhân cách, đạo đức thì chẳng vớ vẩn lắm sao? Văn học
Trung Quốc với các tác phẩm đồ sộ như “Hồng lâu mộng”, “Tam quốc”, “Thủy hử”,
“Tây du ký”, đã đoạt hai giải Nobel là Cao Hành Kiện và Mạc Ngôn, hoàn toàn
xứng là đại ca để chúng ta soi gương. Vậy mà mới đây, nhà văn Tàn Tuyết, trong
bài 'Tác phẩm vĩ đại trong mắt tôi' đã đưa ra những phản tỉnh rất
thẳng thắn và mạnh mẽ, lại là một cơ hội hiếm có khác khiến giới văn học Việt
Nam soi lại mình, để thấy tầm vóc mình ở chỗ nào? Tôi xin trích vài đoạn trong
bài của ông:
“Bởi quá đề cao và sùng bái truyền thống của dân tộc mình (Trung
Quốc), cho nên họ đã không thấy được hoặc
không có khả năng tiến sâu vào địa giới của tinh thần. Mà những tác phẩm này
chỉ dừng lại cái gọi là “kinh nghiệm dân tộc”, “tả thực”. Và sức sống của chúng
tất nhiên chỉ là sự ngắn ngủi và tạm bợ; cường độ phê bình về chúng cũng đáng
ngờ”.
“Những tác phẩm vĩ đại đều là những tác phẩm tự kiểm điểm, tự phê phán.
Trong danh sách những vì sao sáng của tôi, có nhiều nhà văn như vậy, chẳng hạn:
Homer, Dante, Jonh Milton, Shakespeare, Cervantes, Goethe, Kafka, Borges,
Calvino, Tolstoy, Gogol, Dostoievski... Trong danh sách này chủ yếu là các nhà
văn phương Tây và có quan niệm phương Tây, bởi tôi cho rằng ngọn nguồn của văn
học là ở phương Tây. Còn Trung Quốc, từ khởi thuỷ, văn học không được xem là
sản phẩm tinh thần tồn tại độc lập. Văn học Trung Quốc từ xa xưa cho đến nay
đều thiếu khuyết đặc trưng cơ bản nhất của văn học - đó là sự nhận thức tự giác
về bản chất tự thân của chính con người. Có nghĩa là, văn học Trung Quốc hoàn
toàn thiếu sự mâu thuẫn giữa chúng với nhau, nó biến các mâu thuẫn này thành
tác dụng và kỹ xảo một cách triệt để. Văn học truyền thống xưa nay đều dựa vào
đó và hướng ngoại (tức là dừng lại ở tầng nông). Dù là tác phẩm vĩ đại trong số
đó như Hồng lâu mộng thì ngày nay nhìn lại cũng đã quá lỗi thời rồi, bởi nó
không đủ sức khiến người ta phải suy ngẫm và phấn chấn, mà sự miêu tả tâm lý
cũng quá nông cạn thiển cận, nó không nói tới mâu thuẫn nội tâm, và giống như
văn học từ thời thơ ấu của loài người”.
“Lỗ Tấn từng viết một số tác phẩm vĩ đại (toàn bộ Dã thảo và một phần
trong tác phẩm Cố sự tân biên), nhưng số lượng còn quá ít ỏi, sự áp bức về văn
hoá đối với Lỗ Tấn khiến ông chưa kịp phát triển thiên tài của mình. Trong ý
nghĩa này, văn học của đại lục đang đứng trong sự khủng hoảng, những tác phẩm
khám phá nhân tính ở tầng sâu, nâng cao tính dân tộc chưa thực sự trở thành một
trào lưu.
Theo tôi, các nhà văn Trung Quốc nếu không thắng nổi tính tự tôn dân
tộc của mình, thì không có cách nào vươn tới lý tưởng của văn học. Cho nên,
trên văn đàn Trung Quốc, rất nhiều nhà văn mới 40 tuổi đã bắt đầu thoái hoá,
hoặc không viết nổi nữa hoặc viết qua quýt lừa dối người đọc. Căn nguyên của
hiện tượng này là do tâm lý tự cao tự đại dân tộc mà ra. Văn hoá của chúng ta
đã phá huỷ và đầu độc các thiên tài của chúng ta. Sự khiếm khuyết về tinh thần
trong văn hoá Trung Quốc đã khiến cho văn học đại lục ngày nay không thể sinh
sôi và phát triển được, giống như một đứa bé mang bộ mặt già nua, mãi mãi là
một ông già lõi đời, mãi mãi tự mãn, khéo léo như một người thợ giỏi nhất thế
giới; nhưng chỉ có điều không biết tự kiểm, không biết tự phê” (VnExpress).
Văn học Trung Quốc to lớn thế mà
chỉ là đứa trẻ nhiều tuổi mang khuôn mặt già nua tự mãn. Tại sao? Vì cả đời nó
chỉ khoe khéo khoe khôn, ma lanh khôn vặt kiếm sống. Nhưng nó không lớn và
không tài nào lớn được vì nó không bao giờ biết dùng đến lý trí của người
trưởng thành để soi xét tự phê mình. Nó mãi mãi chỉ là người thợ khéo tay. Tư
tưởng chưa bao giờ leo lên đầu nó để trưởng thành và phát tinh hoa ra tác phẩm
thì làm sao nó trở thành nhà tư tưởng? Tôi đã chạm tay vào cuốn “Hồng lâu mộng”
mà không tài nào đọc nổi. Khi thấy phim đó chiếu trên truyền hình, tôi định bỏ
thời gian xem nó, nhưng không tài nào tiêu hóa nổi trong 10 phút. Chỗ nào, từ
trong nhà ra vườn hay ngoài đường, thường thấy cảnh vô số ông già, hay gái xuất
hiện như những kẻ vô hồn, chỉ làm mỗi một việc bày tỏ, chúng ta thuộc về nhà
khá giả. Thật là vô nghĩa! Và vô tích sự! Viết đến đây, có lẽ không thừa khi
chúng ta ôn lại quan sát của nhà thơ Tản Đà về dân tộc Việt: “Dân hai nhăm triệu ai người lớn? Nước bống
ngàn năm vẫn trẻ con”.
Giờ hãy xét văn học Việt Nam. Mới đây đã
có vài tác giả trẻ đụng đến cây đa cây đề. Chẳng hạn như nhà văn Nguyễn Tuân,
người ta nói tài giỏi cỡ nào, mà văn học vẫn chỉ loanh quanh chuyện cá kho hay
phở? Còn ông kễnh Xuân Diệu kia, nghe chuyện ông đi khắp nơi bình thơ như huyền
thoại, nhưng thực ra ông có mỗi “bổn” cũ cứ nhai đi nhai lại, nghe cũng rất
thường thôi. Vả lại mới có vài bài thơ be bé xinh xinh dù có hay cũng nhằm nhò
gì? Xuân Diệu là một cây bút khá uyên bác của thơ Việt Nam, ông thạo tiếng Pháp, tiếng Tầu, uyên thâm
kim cổ, là tác giả của cuốn bình thơ “Các
nhà thơ cổ điển Việt Nam”
dày cả nghìn trang, thật đồ sộ. Nhưng ông chưa phải là một nhà thơ đã vượt tầm.
Khi nói chuyện văn thơ với nhà thơ thiếu nhi thần đồng Trần Đăng Khoa, ông chê
trường ca là “ca ca cứt cứt”. Khi nào người ta văng chữ “cứt”? Đó là lúc người
ta thấy bất lực hay cần nguyền rủa. Và với trường ca, phải nói Xuân Diệu bất
lực và bị loại khỏi vòng chiến một cách tuyệt đối. Ông chỉ đủ trình độ để giải
chiếu bình thơ mà không đủ nội hàm để xây “vạn lý trường thành” cho thơ. Tình
trạng làm những đoản thơ lặt vặt làm cho thơ Việt không bước ra nổi khỏi vũng
lầy chen vai thích cánh và bằng vai phải lứa. Vì thế đã có cả nghìn cây bút
xông lên để viết trường ca. Trời ơi nếu soạn được một bản giao hưởng cho thơ
thì bõ gì đám nhặt lá tung hô thán từ kia? Nhưng than ôi, giao hưởng thì phải
có kịch tính, tức có đối thoại, tức có tư tưởng ở bên trong, đằng này mình chưa
tập để có được thì lấy đâu ra? Thế là các trường ca này đều là tổ hợp kéo dài
cắt dán câu giờ không mục tiêu, không đích đến. Đi rất dài nhưng nhìn lại hóa
ra vẫn chỉ là dấu chân đi quanh sân kho hợp tác.
Mới đây, khi nhà văn mạc ngôn
được giải Nobel, nhà thơ Trần Đăng Khoa có viết bài đại ý: trong thời gian gần
đây anh thấy không mấy cuốn hay vượt hơn những tác phẩm của Mạc Ngôn như “Mông
to vú nở” hoặc “Đàn hương hình”. Anh Khoa nói thế, có lẽ anh chưa đọc và quan
tâm đến những tác phẩm như “Anh em nhà Caramadop” của Dostoievski, hay “Vụ
kiện” của Kafka… Tôi nói thế không hề võ đoán mà dựa trên những hiện thực của
văn chương Việt Nam.
Để hiểu được những tác phẩm trên, người ta phải uyên thâm thần học, tôn giáo,
và công lý ở mức tiền hiến pháp. Tôn giáo, thần học, công lý phổ quát chưa bao
giờ là mối quan tâm của người Việt cả, vì người Việt sống chủ yếu theo “phép
vua thua lệ làng”, và “chuông làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy
thờ”. Phải nói mặt bằng tri thức của các cây bút Việt còn rất lẹt đẹt, thuyền
thúng bơi khỏi ao làng, ra đại đương được vài chuyến, tưởng sẽ trưởng thành nào
ngờ toàn đi mua ụ nổi, tầu cũ về kiếm mấy đồng lãi cò con. Làm sao hiểu được lộ
trình của những con tầu phá băng đi tìm những vỉa quặng mới cho nhân loại?
Thơ Việt nam tủn mủn bé bỏng, cho
nên cứ đi chép tập thơ nào của Tầu từ “Kim Vân Kiều chuyện” đến “Tống Trân Cúc
Hoa” hay “Lục Vân Tiên” thì đều nổi tiếng. Điều đó cũng đúng thôi, giống Trung
Quốc chưa đủ trình độ làm tầu sân bay, thì mua tầu cũ của Nga về, đặt lại tên
và độ lại, chép thơ dài còn hơn làm ra mấy bài thơ ngắn tũn. Nietszche nói “Rồi một ngày học trò sẽ phản lại thầy, vì chính
học trò cũng có sứ mệnh phải làm thầy”. Nhiều nhà thơ, đặc biệt thuộc thế
hệ già Việt đừng cứ ngửa cổ lên là chẳng nhìn thấy vòm mái nào khác Nguyễn Du
cả. Hãy xé cái vòm ấy ra để nhìn thấy bầu trời đầy sao lý tưởng của nhân loại.
Văn chương gốc của Tầu còn ở mức tả thực, kinh nghiệm dân tộc, chưa bao giờ
nhắm đến lý tưởng cao vời của nhân loại phổ quát, thì bản sao phái sinh từ bản
gốc đó có được bao nhiêu ý nghĩa mà cứ nhìn ngắm nghía suýt xoa hoài không chán
vậy. Để có một nền văn học tiến bộ xứng đáng chúng ta cần phải có một cách nhìn
mới. Văn hào Victor Hugo nói: Sở dĩ có
bạn đọc mới thì có văn học mới! Văn học của chúng ta, không chỉ bạn đọc cũ
kỹ lười đọc, mà chính các tác giả cũng cũ kỹ mốc meo luôn, làm sao chúng ta có
văn học mới, mà đòi ảo tưởng về tầm nhìn sẽ xuyên qua cái vòm kể lể trần thuật
cũ như hang hốc của Tầu?
Phùng Gia Lộc người nhỏ thó, ốm yếu, gầy gò; nước da xanh xám, thở lúc nào cũng nặng nhọc, khò khè suốt ngày vì bị hen suyễn nặng… Thế nhưng, bên trong con người có bề ngoài mảnh khảnh ốm o ấy lại luôn là một tấm lòng nồng hậu, một tinh thần sục sôi chống lại cái ác, không chịu được sự bất công, ngang ngược của bọn quan lại, cường hào mới… Giai đoạn quyết liệt nhất, sau khi đăng “Cái đêm hôm ấy đêm gì”, Phùng Gia Lộc phải trốn ra Hà Nội… Tôi vẫn nhớ như in cái cảnh về quê của Phùng Gia Lộc sau những ngày trốn tránh. Vợ anh chạy từ đâu về không biết, mặt mày hốt hoảng, tất tả, tiêu điều không khác gì chị Dậu trong Tắt đèn ngày trước. Mấy đứa con ngơ ngác, lạ lẫm trước đoàn khách xe pháo, hàng hóa lềnh kềnh đầy một khoảng sân đất trước nhà. Nhà anh xiêu vẹo hơn nhà chị Dậu…
Khi xe Vũ xuống dốc cầu qua địa phận xã Ngọc Châu thì phải dừng lại, vì chiếc xe tải phía trước thắng gấp để tránh hai phụ nữ đèo nhau bất chợt vượt qua mặt vào mép đường. Cũng vừa lúc đó phía sau xe Vũ có một chiếc xe tải lớn chở than của một công ty ở thị xã Hòn Gai (Quảng Ninh) do tài xế Nguyễn Công Thành lái, chạy với tốc độ lớn xuống dốc cầu, không kịp thắng đã lao đâm vào phía trái đuôi xe của Vũ. Bị tác động bởi một lực quá lớn, vợ chồng Doãn Châu ngồi sau lái xe ngã bổ vào thùng xe, còn vợ chồng Quỳnh - Vũ và con trai Quỳnh Thơ ngồi bên phải bị hất tung lên khỏi xe rơi xuống mặt đường.
Tôi rất ngạc nhiên khi tôi vừa đưa mấy bài viết lên trang, có kẻ đã nhắn vào điện thoại tôi: “Câm mồm đi thằng già!”. “Muốn ăn bánh ô tô không?”. Trên mạng xã hội, xuất hiện một số người xuyên tạc, thóa mạ, cho là tôi kích động chiến tranh rồi vu đòn chính trị. Kỳ lạ vậy …
Báo Dân Việt đưa tin: “Chiều 3.3, bà Nguyễn Phương Hằng, Phó Tổng giám đốc Công ty Du lịch Đại Nam , cho biết chính thức kiện ông Minh Diện vì cố tình xâm phạm đời sống riêng tư và bịa đặt nhằm làm nhục người khác. Ngoài ra, ông Minh Diện còn bị tố không có văn hóa và hủy hoại danh dự người khác không phải riêng với vợ chồng ông Huỳnh Uy Dũng - bà Nguyễn Phương Hằng ( ảnh bên ) mà kể cả một số cá nhân. Bà Nguyễn Phương Hằng cho biết: “Ông Minh Diện đã lôi kéo một số người nhằm phá hoại khu du lịch Đại Nam đang hoạt động. Tôi tin luật pháp nghiêm minh sẽ trừng trị thích đáng những kẻ chuyên đi phá hoại cuộc sống bình yên của người khác”. Được biết, ông Minh Diện đã có nhiều bài viết đăng trên blog B. liên quan đến một số cá nhân và gần đây ông Minh Diện có bài viết “Ân oán còn lâu”. Theo vợ ông Huỳnh Uy Dũng, bài viết toàn là những chuyện bịa đặt, hư cấu nhằm bôi nhọ, xúc phạm nhân phẩm và vu khống, phá hoại hạnh phúc gia đình vợ chồng ông đồng thời phá hoại hoạt động sản xuất kinh...
Ngụy biện hay lỗi ngụy biện (fallacy) trong thảo luận và trình bày ý kiến là một vấn đề nghiêm trọng, xảy ra trên bình diện đại số đông người Việt, không chỉ ở cả dân thường mà kể cả các vị có bằng cấp, học thức, hot bloggers hay như từ cách lý luận báo chí trong nước vốn là một núi ngụy biện. Ngụy biện (fallacy) nguy hiểm hơn, còn khiến người nhiễm phải nó có một lối tư duy suy nghĩ và phân tích vấn đề sai lệch. Người càng ít tranh luận thì càng khó có khả năng phát hiện lỗi ngụy biện trong tư duy của mình để chỉnh sửa. Đó là lý do ta thấy nhiều người ít nói, nhưng một khi mở miệng thì sẽ đuối lý và kết quả là chỉ biết chửi thề, xúc phạm, tấn công cá nhân người khác mà thôi. Chúng ta thử xem xét vài ngụy biện của những người tham gia buổi “đấu tố” mang tên “Chia sẻ trên mạng xã hội để làm gì?” trong chương trình “60 phút mở” của VTV đang gây xôn xao dư luận.