Hoàng Việt Hằng
chú trọng đưa chất sống vào thơ, hút nhụy sốngtừ nhiềumiền quê đất nước và
vươn ra bên ngoài biên giới hy vọng đem lại màu mỡ cho thơ. Cứ nhìn vào các địa
danh sẽ rõ: Thác Bờ, Sông Mã, Sông Mực, Bến En, Đục Khê, Đảo Dấu, Mẫu Sơn, Mường
Lát, Tủa Chùa, Mường Lay, Buôn Đôn, Ngọa Vân… rồi Nậm Khan, Kỉu Mai Lo (Lào),
Ăng Ko Thom (Cămpuchia), Pattaya (Thái Lan)… Các bài thơ là những phác thảo gọn
và gợi. Tác giả đi nhiều, như là chạy trốn nhưng không thể trốn được cô đơn.
“Trong lòng tôi/ người đàn bà bán vải/ mỗi
tháng một phiên/ bóng lẻ về”
Xóa đi và
không xóa
(Tập thơ của
Hoàng Việt Hằng - Nxb Phụ nữ 2012)
MÃ GIANG LÂN
Mấy năm nay, một cây bút nữ viết khỏe, xông
xáo, ấy là Hoàng Việt Hằng. Cả thơ, tản văn, tiểu thuyết, khoảng 4 năm in đến 5
quyển. Tập thơ “Vệt trăng và cánh cửa” (2008) có nhiều bài hay xúc động,
ám ảnh ngay từ tên bài: Đèn lẻ bóng, Những
dấu lặng, Một mình khâu những lặng im, Ẩn ức… Có nhiều câu thật thương, thật
xót xa: “Lấy chồng lấy cả nỗi đau của chồng… /Một mai góc biển chân trời/viết
nuôi con lớn nên người mới xong/ một mai trăng sáng thong dong/mình em khâu những
mùa đông đời mình”. “Chỉ chiêm bao em nán chờ anh về - lần… nữa/ chỉ nước mắt
khô”. Nỗi đau thân phận, niềm cảm thông với những kiếp người thua thiệt, nghị lực
sống làm nên phẩm chất của tập thơ.
“Xóa đi và
không xóa” (2012) Hoàng Việt Hằng giữ được và tiếp tục mạch nguồn từ những tập
thơ trước, mở mang thêm những vỉa tầng đời sống. Một điều xưa cũ nhưng lại luôn
có ý nghĩa thẩm mỹ. Tác phẩm nghệ thuật nói gì và nói như thế nào. Tư tưởng và
phương thức biểu hiện. Tư tưởng thoát lên từ đời sống, cách nhìn đời sống và
phương thức biểu hiện nhờ ngôn ngữ. Ngôn ngữ tạo mô thức hình dáng, câu chữ, vắt
dòng, hình ảnh, liên tưởng, vần điệu, nhịp điệp, giọng điệu… Và chính ở đây tư
tưởng tác phẩm mới được hiện ra cụ thể sinh động. Có bước chân rộng, có tầm
nhìn xa nhưng quan trọng là độ sâu tâm hồn.
Hoàng Việt Hằng
chú trọng đưa chất sống vào thơ, hút nhụy sốngtừ nhiềumiền quê đất nước và
vươn ra bên ngoài biên giới hy vọng đem lại màu mỡ cho thơ. Cứ nhìn vào các địa
danh sẽ rõ: Thác Bờ, Sông Mã, Sông Mực, Bến En, Đục Khê, Đảo Dấu, Mẫu Sơn, Mường
Lát, Tủa Chùa, Mường Lay, Buôn Đôn, Ngọa Vân… rồi Nậm Khan, Kỉu Mai Lo (Lào),
Ăng Ko Thom (Cămpuchia), Pattaya (Thái Lan)… Các bài thơ là những phác thảo gọn
và gợi. Tác giả đi nhiều, như là chạy trốn nhưng không thể trốn được cô đơn.
“Trong lòng tôi/ người đàn bà bán vải/ mỗi
tháng một phiên/ bóng lẻ về” (Một lần đi chợ Đục Khê), “Theo dòng Thác Bờ/ nhìn
hoa dại nở/mà thấy bơ vơ” (Tôi ơi), “Lên đến Tủa Chùa. Rồi xuống Mường Lay… /một
mình vớt núi/ một mình vớt mây” (Đỉnh núi và bờ vực). Và trên đỉnh Rùng Rình
“Tôi/ rêu phủ/ trượt ngã vào cô đơn”. Rất nhiều những chuyến đi lên rừng xuống
biển, hết ngược lại xuôi, hòa với thiên nhiên, con người: người mẹ ở Buôn Đôn,
người đàn bà đan cói ở Kim Sơn, người phụ nữ Việt ly hương và đơn độc ở đất nước
người. Đi theo người Dao ở Mẫu Sơn,tìm cây thuốc mà chấtvấn cây thuốc không chữa được vết thương lòng
người; hoặc thấy đứa trẻ bị bỏ hoang được người trồng ngưu tất cứu sống… Bao
nhiêu con người, bấy nhiêu số phận, chẳng số phận nào may mắn hoặc ít ra được
bình thường, được sống yên lành. Thì ra, tâm hồn nhạy cảm, đầy nhân ái của nhà
thơ luôn hướng đến những cuộc đời cơ cực có cảnh ngộ đang cần sự quan tâm an ủi
của mọi người của xã hội. Các bài thơ cứ như nói với mình, về mình nhưng lại là
những lời nhắc nhở, khơi ngợi lương tâm đồng loại. Chất sống, tư tưởng của thơ
là ở đấy.
Có một số bài thơ, câu thơ Hoàng Việt Hằng
muốn nâng lên thành những chiêm nghiệm, tăng thêm trí tuệ. Một tâm thế dùng dằng
lựa chọn “Xóa đi và không xóa” làm bật lên một triết lý nhân sinh “ai đó sống
suốt đời vì người khác/ đã tàn tro mà thời gian không tro tàn” “Muốn yên tĩnh/thôi
ngước nhìn trăng cong. Muốn yên tĩnh / nước mắt chảy vào trong…” Cầu nguyện khi
lên Ngọa Vân /nếu được xin người cho chữ tĩnh. Ra Đảo Dấu trước biển cả mênh
mông /tôi chỉ một lần cúi xuống/ ra đây xin được thảnh thơi. Gặp vợ người thợ
lò mất chồng /chị trẻ tới nỗi. bế con đeo khăn xô/tôi phải quay mặt đi. Một cử
chỉ cao hơn bất kỳ một thái độ nào. Những câu thơ giản dị, không dấu vết gia
công nghệ thuật mà lay động bởi độ sâu tâm hồn và đậm nữ tính.
Nếu chỉ thế thôi, thì có khác gì, hơn gì thơ
của nhiều người viết. Chất riêng thơ Hoàng Việt Hằng dồn vào những bài thơ dành
cho thân phận mình, cho chồng con, nhất là khi viết về người chồng (một nhà
văn) đã mất. Tình cảm vợ chồng âm dương cách trở là một tình cảm mạnh mẽ, đau đớn
thương tâm. Muôn thuở vẫn thế. Và là nguồn đề tài đắc địa của thơ. Nhiều tác phẩm
của các nữ sĩ xưa nay được người đời nhắc đến ghi rõ dấu ấn cá nhân và nỗi niềm
riêng tư cảm động. Gần với chúng ta, nữ sĩ Tương Phố khóc chồng mỗi độ thu về.
Tiếng thơ của bà thương nhớ, não nề. Tiếng thơ của nhà thơ nữ hôm nay buồn da
diết mà cố gắng khuây khỏa. Dù sao cũng còn nhiều việc phải làm: nghề nghiệp,
công tác xã hội, nuôi con ăn học.
Em đã gói kỷ niệm/gói giọt sương trên lá sen khô/gói cả anh
và tình yêu hai ta xưa/nhưng gói mãi đến mùa xuân phải mở/cho nỗi buồn không
héo khô(Dù em có dụi mắt)
Vậy là cố quên nhưng không thể quên và nỗi
buồn với nhà thơ lại là tài sản quý giá. Có thể nỗi buồn làm cho con người dễ
nhận ra bản thể mình, dễ cảm thông chia sẻ với mọi cảnh ngộ và nhạy cảm với những
biến thái của cuộc đời. Cứ thử xem từ một tâm thế buồn lại suy ra được bao điều
sâu sắc. Nỗi buồn không khô héo thì sự nhận biết, nỗi niềm không bao giờ cũ. Nó
lay gọi, gợi nhớ những kỷ niệm tươi nguyên với hiện tại xót xa. Bên hàng cây
cơm nguội /ngày ấy anh ôm em/cây cũng trẻ /và cây nghiêng ngả/ bây giờ cây đã
già/và anh trở về với đất. (Dấu ngã ở bên trời). Có lúc /em vừa viết thư cho
anh/ gửi thế giới bên kia/viết xong xóa đi. Tình yêu nỗi nhớ da diết day trở
không nguôi. Có bài thơ vần điệu, nhịp điệu như quên buồn để vui với tưởng tượng./như
thể anh mới về/mắc lại cái dây phơi/để hong khô nước mắt/mắt ướt mà không khóc/lá
vàng chan thu tàn/lá vàng vun đơn lẻ/trong những chiều tam quan(Mắt ướt).Và anh về nói mỗi câu /mắt ướt này mắt ướt.
Chỉ thế thôi, mong thế thôi nhưng /làm sao gặp nhau được/ dù chỉ là chiêm bao.
Thì ra gặp được chồng ở thế giới bên kia trong chiêm bao cũng chỉ là ao ước.
Nỗi buồn
tình yêu và rộng ra là nỗi buồn thân phận nhà thơ cứ tăng dần chìm lấp bởi mọi
tình cảm khác. Nói với con: /lệch một bờ vai mẹ ngồi so trong đục… /tóc trắng
trên đầu quên nhớ cũng như mưa. Thảng thốt giật mình khi ngồi gỡ tóc: /tóc trắng
thế này sao. Lại từng trải, chiêm nghiệm /những nỗi đau hóa mây trắng cả rồi.
(Lâu lắm rồi). Lên đỉnh Rùng Rình: /Tôi vấp ngã hết tuổi xuân / qua trưa /sang
chiều”. Đến đâu cũng /chỉ mong sẽ không nghĩ ngợi/ lan man đau khổ kiếp người.
(Ra đảo Dấu). Thật thương một con người đã đến
mức rơi vào những hành động cử chỉ vẩn vơ: đôi khi ngồi đếm kiến bò / thấy mình
không bằng con kiến.Và những vô cảm trước mọi nỗi đời /dửng dưng nghĩ mình
không sống. (Thơ không đặt tên).Đấy là
những câu thơ gan ruột, đau buồn. Tâm hồn nhà thơ là một nam châm thu hút tất cả
những rung động của cuộc đời của số phận riêng mình làm nên chất mật vừa đắng
đót vừa dịu dàng. Đọc thơ ta như quên đi câu chữ nghệ thuật, chỉ thấy tâm hồn,
cảm thông chia sẻ với một tâm hồn đa cảm, nhân ái. Đến đây tôi nhớ câu nói của
A. Musset nhà thơ lớn nước Pháp: “Nghệ thuật chỉ làm ra được những câu thơ.
Chính tâm hồn mới là thi sĩ”.
Ở trên tôi
đã nói, thơ nữ hôm nay có buồn có đau. Không buồn đau sao được trước những mất
mát không gì bù đắp được. Nhưng không bi lụy vì cuộc đời còn dài. Còn công việc
còn bao lo toan trách nhiệm. Hoàng Việt Hằng ngoài làm thơ còn viết văn viết
báo/ viết nuôi con lớn nên người. Đọc mà ứa nước mắt. Mấy ai sống bằng ngòi
bút. Viết nuôi mình đã khó, lại nuôi con nữa, thật khó. Thế mà nhà thơ, một
mình chị gắng gỏi làm được .
Phùng Gia Lộc người nhỏ thó, ốm yếu, gầy gò; nước da xanh xám, thở lúc nào cũng nặng nhọc, khò khè suốt ngày vì bị hen suyễn nặng… Thế nhưng, bên trong con người có bề ngoài mảnh khảnh ốm o ấy lại luôn là một tấm lòng nồng hậu, một tinh thần sục sôi chống lại cái ác, không chịu được sự bất công, ngang ngược của bọn quan lại, cường hào mới… Giai đoạn quyết liệt nhất, sau khi đăng “Cái đêm hôm ấy đêm gì”, Phùng Gia Lộc phải trốn ra Hà Nội… Tôi vẫn nhớ như in cái cảnh về quê của Phùng Gia Lộc sau những ngày trốn tránh. Vợ anh chạy từ đâu về không biết, mặt mày hốt hoảng, tất tả, tiêu điều không khác gì chị Dậu trong Tắt đèn ngày trước. Mấy đứa con ngơ ngác, lạ lẫm trước đoàn khách xe pháo, hàng hóa lềnh kềnh đầy một khoảng sân đất trước nhà. Nhà anh xiêu vẹo hơn nhà chị Dậu…
Khi xe Vũ xuống dốc cầu qua địa phận xã Ngọc Châu thì phải dừng lại, vì chiếc xe tải phía trước thắng gấp để tránh hai phụ nữ đèo nhau bất chợt vượt qua mặt vào mép đường. Cũng vừa lúc đó phía sau xe Vũ có một chiếc xe tải lớn chở than của một công ty ở thị xã Hòn Gai (Quảng Ninh) do tài xế Nguyễn Công Thành lái, chạy với tốc độ lớn xuống dốc cầu, không kịp thắng đã lao đâm vào phía trái đuôi xe của Vũ. Bị tác động bởi một lực quá lớn, vợ chồng Doãn Châu ngồi sau lái xe ngã bổ vào thùng xe, còn vợ chồng Quỳnh - Vũ và con trai Quỳnh Thơ ngồi bên phải bị hất tung lên khỏi xe rơi xuống mặt đường.
Tôi rất ngạc nhiên khi tôi vừa đưa mấy bài viết lên trang, có kẻ đã nhắn vào điện thoại tôi: “Câm mồm đi thằng già!”. “Muốn ăn bánh ô tô không?”. Trên mạng xã hội, xuất hiện một số người xuyên tạc, thóa mạ, cho là tôi kích động chiến tranh rồi vu đòn chính trị. Kỳ lạ vậy …
Báo Dân Việt đưa tin: “Chiều 3.3, bà Nguyễn Phương Hằng, Phó Tổng giám đốc Công ty Du lịch Đại Nam , cho biết chính thức kiện ông Minh Diện vì cố tình xâm phạm đời sống riêng tư và bịa đặt nhằm làm nhục người khác. Ngoài ra, ông Minh Diện còn bị tố không có văn hóa và hủy hoại danh dự người khác không phải riêng với vợ chồng ông Huỳnh Uy Dũng - bà Nguyễn Phương Hằng ( ảnh bên ) mà kể cả một số cá nhân. Bà Nguyễn Phương Hằng cho biết: “Ông Minh Diện đã lôi kéo một số người nhằm phá hoại khu du lịch Đại Nam đang hoạt động. Tôi tin luật pháp nghiêm minh sẽ trừng trị thích đáng những kẻ chuyên đi phá hoại cuộc sống bình yên của người khác”. Được biết, ông Minh Diện đã có nhiều bài viết đăng trên blog B. liên quan đến một số cá nhân và gần đây ông Minh Diện có bài viết “Ân oán còn lâu”. Theo vợ ông Huỳnh Uy Dũng, bài viết toàn là những chuyện bịa đặt, hư cấu nhằm bôi nhọ, xúc phạm nhân phẩm và vu khống, phá hoại hạnh phúc gia đình vợ chồng ông đồng thời phá hoại hoạt động sản xuất kinh...
Ngụy biện hay lỗi ngụy biện (fallacy) trong thảo luận và trình bày ý kiến là một vấn đề nghiêm trọng, xảy ra trên bình diện đại số đông người Việt, không chỉ ở cả dân thường mà kể cả các vị có bằng cấp, học thức, hot bloggers hay như từ cách lý luận báo chí trong nước vốn là một núi ngụy biện. Ngụy biện (fallacy) nguy hiểm hơn, còn khiến người nhiễm phải nó có một lối tư duy suy nghĩ và phân tích vấn đề sai lệch. Người càng ít tranh luận thì càng khó có khả năng phát hiện lỗi ngụy biện trong tư duy của mình để chỉnh sửa. Đó là lý do ta thấy nhiều người ít nói, nhưng một khi mở miệng thì sẽ đuối lý và kết quả là chỉ biết chửi thề, xúc phạm, tấn công cá nhân người khác mà thôi. Chúng ta thử xem xét vài ngụy biện của những người tham gia buổi “đấu tố” mang tên “Chia sẻ trên mạng xã hội để làm gì?” trong chương trình “60 phút mở” của VTV đang gây xôn xao dư luận.