Có không chỉ một cách định nghĩa về khái niệm đô thị hóa.
Theo một số chuyên gia, đô thị hóa hay sự tăng trưởng vật lý của các khu vực đô
thị là kết quả của quá trình dịch chuyển của các cư dân từ những vùng nông thôn
vào thành phố. Một số chuyên gia khác cho rằng, đô thị hóa là quá trình nâng
cao vai trò của các thành phố trong sự phát triển của xã hội. Điều kiện tiên
quyết đô thị hóa - sự tăng trưởng trong các ngành công nghiệp đô thị, sự phát
triển của các chức năng văn hóa và chính trị của họ, sâu sắc của sự phân chia
lãnh thổ của lao động. Đối với quá trình đô thị hóa được đặc trưng bởi dòng dân
số nông thôn và sự gia tăng con lắc di chuyển dân số từ môi trường nông thôn và
các thị trấn nhỏ xung quanh các thành phố lớn vì những lý do khác nhau.
Hệ lụy đô thị hóa
KINH KHA
Mặc dầu thế giới hiện đại được coi là “nền văn minh đô thị
lớn” nhưng những thành phố khổng lồ thực ra vẫn còn là hiện tượng lạ lẫm đối
với nhân loại. Trong phần lớn lịch sử của mình, nhân loại chủ yếu chỉ sống ở
những vùng nông thôn và làm nông nghiệp. Giờ đây con người đang lao vào giai
đoạn đô thị hóa quá khẩn trương và không ai dám nói chắc về những ảnh hưởng của
xu thế này đối với tương lai của nền văn minh.
Lịch sử các thành phố
Một điều đáng lưu ý là, cho tới hôm nay trên thế giới vẫn
chưa có được một tiêu chí chung để xác định, một khu dân cư như thế nào là một
thành phố? Tại một số nước, thành phố là nơi tập trung từ hai nghìn cư dân trở
lên, còn ở một số nước khác, số cư dân trong một thành phố phải cao hơn 20
nghìn người. Tại Mỹ chẳng hạn, một khu dân cư có hơn 2,5 nghìn người sinh sống
có thể được coi là một thành phố. Trung Quốc đã không chỉ một lần thay đi đổi
lại tiêu chí thành phố và vì thế năm 1994, có tới 40% dân số nước này được coi
là người thành phố và hai năm sau đó, tỉ lệ đó đã là 43%!
Cho tới nay vẫn chưa ai biết một cách chắc chắn về đô thị
đầu tiên xuất hiện trên trái đất. Một số nhà sử học cho rằng, chúng đã từng có
ở vương quốc cổ Shumer (nằm ở miền nam Iraq hiện đại) và Ấn Độ khoảng từ 5 tới
7 nghìn năm trước. Có lẽ đô thị đầu tiên có dân số hơn 1 triệu người là thành
Rome ở La Mã cổ đại, ở vào khoảng thế kỷ thứ V. Sự kiện này có tầm quan trọng
rất lớn: đại đa số các nhà sử học đều cho rằng, khi đó toàn bộ dân số trên thế giới
không vượt quá 170 triệu người.
Trong tập sách tra cứu hàn lâm Quá trình đô thị hóa trong
lịch sử có ghi rằng chính tại thành Rome khi ấy đã xuất hiện hàng loạt những
công nghệ mà cho tới nay vẫn được sử dụng trong các đô thị hiện đại: chính ở
đấy đã lập ra các hệ thống trung tâm cung cấp nước và thoát nước, thông lệ trợ
cấp nhà ở các cư dân nghèo... Tuy nhiên, sau khi đế chế La Mã sụp đổ, trong
suốt 17 thế kỷ liền trên trái đất không có một đô thị triệu dân nào khác nữa.
Mãi tới năm 1800, Bắc Kinh mới vượt qua được ranh giới này. Và tiếp theo là hai
thành phố New York và London. Thời ấy, đô thị lớn còn là những hiện
tượng hiếm hoi và lạ lẫm vì chỉ có khoảng 4% dân số thế giới sống ở các đô thị.
Cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo nên đà mới cho quá trình
đô thị hóa: chính tại các thành phố đã mọc lên vô số những nhà máy công nghiệp,
thu hút đông đảo nhân công làm thuê (thành phần xuất thân chủ yếu là nông dân
hay người nhập cư). Tới năm 1900 đã có khoảng 14% dân số thế giới sống trong
các đô thị và 12 thành phố có số dân đông hơn 1 triệu người. Hiện tượng tương
tự như thế hiện đang diễn ra tại các nước đang phát triển: người dân ở các vùng
nông thôn đổ xô vào các đô thị để kiếm tìm việc làm và trốn tránh nạn đói. Tại
Trung Quốc trong những năm 1960 - 1990 tốc độ gia tăng dân số ở các đô thị dựa
trên sự gia tăng tự nhiên và giảm tỉ lệ tử vong khoảng 60%, phần còn lại (40%)
là do nông dân chuyển ra kiếm kế sinh nhai.
Trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tại nhiều nơi
trên thế giới (có lẽ chỉ trừ Việt Nam, nơi từ lâu đã có câu ca “Giàu nhà quê
không bằng ngồi lê Kẻ Chợ”), các đô thị vẫn bị coi là nơi cư trú không mấy
thuận tiện: thông thường, nông dân được sống ở những nơi rộng rãi hơn, thoáng
mát hơn, có điều kiện vệ sinh tốt hơn; chính vì thế mà dân đô thị ở châu Âu hay
bị mắc các dịch bệnh nhiều hơn người nông dân.
Theo nghiên cứu của tổ chức Population Reference
Bureau, giữa thế kỷ XIX, tại phần lớn các đô thị châu Âu tỉ lệ tử vong luôn cao
hơn tỉ lệ sinh. Đến giữa thế kỷ XX, tốc độ tăng trưởng cao nhất lại thuộc về
các đô thị nằm ở những quốc gia giàu có: sự gia tăng dân số ở đây phụ thuộc chủ
yếu do luồng dân di cư và nhập cư từ nơi khác tới. Tới năm 1950 đã có khoảng
30% dân số trên thế giới sống ở các đô thị và trên trái đất đã có khoảng 83
thành phố với số dân trên 1 triệu người. Những đô thị lớn nhất thế giới lúc đó
là New York (Mỹ), London (Anh), Tokyo (Nhật Bản), Paris (Pháp), Moskva (Liên
Xô), Chicago (Mỹ) và Essemn (CHLB Đức). Chẳng bao lâu sau đó, New York đã trở thành thành phố lớn nhất thế
giới với dân số lên tới trên 10 triệu người.
Đông chưa chắc đã vui
Trong thế kỷ XX, dân số thế giới đã tăng từ 1,65 tỉ lên tới
trên 6 tỉ người. Tốc độ gia tăng cư dân đô thị cao hơn hẳn so với tốc độ gia
tăng dân số nói chung. Theo thống kê của LHQ, hiện nay dân số cư trú ở các đô
thị chiếm khoảng 47% dân số thế giới (2,8 tỉ người). Đang có khoảng 411 thành
phố lớn với số dân trên 1 triệu người. 39% số cư dân thị thành sống ở những
thành phố có số dân trên 1 triệu người. 15% số cư dân đô thị sống tại những
thành phố lớn có trên 5 triệu người.
Theo các con số thống kê gần đây, những thành phố đông dân
nhất thế giới là Tokyo (26,5 triệu dân), San Paolo (18,3 triệu dân),
Mexico City (18,3 triệu dân), New York (16,8 triệu dân), Bombay (16,5 triệu
dân)... Theo dự báo của Population Institute, tới năm 2015, danh sách này sẽ có
những thay đổi không nhỏ. Tokyo có thể vẫn tiếp
tục giữ ngôi vị quán quân về dân số nhưng những thành phố đi sát theo sau nó sẽ
là Dacca, Bombay,
San Paolo, Delhy và Mexico City.
New York có
thể bị sẽ đẩy lùi xuống vị trí thứ 7. Trong top-ten các đô thị đông dân nhất
của năm 2015 có thể sẽ còn có thêm Jakarta, Calcutta và Carachi...
Đứng đầu về tốc độ đô thị hoá các quốc gia thuộc “thế giới
thứ ba”, tại các thành phố lớn ở khu vực này hiện đang sinh sống tới 1,7 tỉ
người.
Những con số như thế hoàn toàn không phải là minh chứng về
việc cuộc sống thị thành đã thực sự trở nên hấp dẫn đối với con người. Tới cuối
thế kỷ XX, tại Hoa Kỳ và một phần ở châu Âu đã xuất hiện dòng chảy ngược: những
cư dân thị thành chuyển dần về sống ở vùng ngoại ô. Theo số liệu do tạp chí The
Enviromental Magazine, trong giai đoạn từ 1970 tới 1996, dân số ở thành phố
Detroi (Mỹ) đã giảm tới 33,9%, còn ở thành phố Saint Louis, tỉ lệ này là 49%. Nguyên
nhân, theo tạp chí này, là do tình hình an ninh trật tự và môi trường trở nên
tồi tệ hơn ở các đô thị đó.
Tương lai không rạng tỏ
Trung bình số dân gia tăng hàng năm trên trái đất ở con số
trên dưới 77 triệu người, trong số này có tới 60 triệu người sống ở các đô thị.
Theo số liệu của một công trình nghiên cứu do Liên hợp quốc (LHQ) và Ngân hàng
thế giới (WB) tài trợ, đến năm 2025 sẽ có tới hai phần số dân trên thế giới
sống trong các đô thị. Tới năm 2015 sẽ có khoảng 33 thành phố với số dân trên 8
triệu người và khoảng 500 đô thị có số dân trên 1 triệu người. Trong vòng
khoảng một thập niên tới, diện tích các đô thị tại “thế giới thứ ba” có thể sẽ
tăng gấp đôi.
Tuy nhiên, đời sống ở đại đa số các đô thị đang ngày càng
trở nên khó khăn và nguy hiểm: bị suy giảm sức khoẻ, thậm chí mất mạng, ở các
đô thị thường dễ hơn là ở vùng nông thôn. Đó chính là kết luận của các nhà phân
tích thuộc Chương trình thông tin nghiên cứu về dân số Trường đại học Tổng hợp
John Hopkins. Sự bành trướng của các đô thị ở “thế giới thứ ba” sẽ gây nên
những tác động tiêu cực khôn lường cho môi trường. Trong nửa thế kỷ gần đây, lượng
nước ngọt được sử dụng trên thế giới đã tăng gấp bốn lần, nhưng có tới 90%
lượng nước thải từ các hệ thống cống rãnh ở các đô thị thuộc “thế giới thứ ba”
đã lọt ra biển mà không hề được xử lý. Tại châu Phi có tới 80% lượng rác đã
được đổ ra khoảng không chẳng có gì che đậy...
Các chuyên gia đã dự báo, đại đa số những người thu nhập
thấp nhất sắp tới sẽ cư trú tại các đô thị, trong những điều kiện tồi tệ hơn
nhiều so với các vùng nông thôn. New Arleans đã là một trong những đô thị nghèo
đói nhất Hoa Kỳ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới cảnh hôi
của và cướp bóc tràn lan ở thành phố thảm họa này khi cơn bão Katrina tràn qua.
Phùng Gia Lộc người nhỏ thó, ốm yếu, gầy gò; nước da xanh xám, thở lúc nào cũng nặng nhọc, khò khè suốt ngày vì bị hen suyễn nặng… Thế nhưng, bên trong con người có bề ngoài mảnh khảnh ốm o ấy lại luôn là một tấm lòng nồng hậu, một tinh thần sục sôi chống lại cái ác, không chịu được sự bất công, ngang ngược của bọn quan lại, cường hào mới… Giai đoạn quyết liệt nhất, sau khi đăng “Cái đêm hôm ấy đêm gì”, Phùng Gia Lộc phải trốn ra Hà Nội… Tôi vẫn nhớ như in cái cảnh về quê của Phùng Gia Lộc sau những ngày trốn tránh. Vợ anh chạy từ đâu về không biết, mặt mày hốt hoảng, tất tả, tiêu điều không khác gì chị Dậu trong Tắt đèn ngày trước. Mấy đứa con ngơ ngác, lạ lẫm trước đoàn khách xe pháo, hàng hóa lềnh kềnh đầy một khoảng sân đất trước nhà. Nhà anh xiêu vẹo hơn nhà chị Dậu…
Khi xe Vũ xuống dốc cầu qua địa phận xã Ngọc Châu thì phải dừng lại, vì chiếc xe tải phía trước thắng gấp để tránh hai phụ nữ đèo nhau bất chợt vượt qua mặt vào mép đường. Cũng vừa lúc đó phía sau xe Vũ có một chiếc xe tải lớn chở than của một công ty ở thị xã Hòn Gai (Quảng Ninh) do tài xế Nguyễn Công Thành lái, chạy với tốc độ lớn xuống dốc cầu, không kịp thắng đã lao đâm vào phía trái đuôi xe của Vũ. Bị tác động bởi một lực quá lớn, vợ chồng Doãn Châu ngồi sau lái xe ngã bổ vào thùng xe, còn vợ chồng Quỳnh - Vũ và con trai Quỳnh Thơ ngồi bên phải bị hất tung lên khỏi xe rơi xuống mặt đường.
Tôi rất ngạc nhiên khi tôi vừa đưa mấy bài viết lên trang, có kẻ đã nhắn vào điện thoại tôi: “Câm mồm đi thằng già!”. “Muốn ăn bánh ô tô không?”. Trên mạng xã hội, xuất hiện một số người xuyên tạc, thóa mạ, cho là tôi kích động chiến tranh rồi vu đòn chính trị. Kỳ lạ vậy …
Báo Dân Việt đưa tin: “Chiều 3.3, bà Nguyễn Phương Hằng, Phó Tổng giám đốc Công ty Du lịch Đại Nam , cho biết chính thức kiện ông Minh Diện vì cố tình xâm phạm đời sống riêng tư và bịa đặt nhằm làm nhục người khác. Ngoài ra, ông Minh Diện còn bị tố không có văn hóa và hủy hoại danh dự người khác không phải riêng với vợ chồng ông Huỳnh Uy Dũng - bà Nguyễn Phương Hằng ( ảnh bên ) mà kể cả một số cá nhân. Bà Nguyễn Phương Hằng cho biết: “Ông Minh Diện đã lôi kéo một số người nhằm phá hoại khu du lịch Đại Nam đang hoạt động. Tôi tin luật pháp nghiêm minh sẽ trừng trị thích đáng những kẻ chuyên đi phá hoại cuộc sống bình yên của người khác”. Được biết, ông Minh Diện đã có nhiều bài viết đăng trên blog B. liên quan đến một số cá nhân và gần đây ông Minh Diện có bài viết “Ân oán còn lâu”. Theo vợ ông Huỳnh Uy Dũng, bài viết toàn là những chuyện bịa đặt, hư cấu nhằm bôi nhọ, xúc phạm nhân phẩm và vu khống, phá hoại hạnh phúc gia đình vợ chồng ông đồng thời phá hoại hoạt động sản xuất kinh...
Ngụy biện hay lỗi ngụy biện (fallacy) trong thảo luận và trình bày ý kiến là một vấn đề nghiêm trọng, xảy ra trên bình diện đại số đông người Việt, không chỉ ở cả dân thường mà kể cả các vị có bằng cấp, học thức, hot bloggers hay như từ cách lý luận báo chí trong nước vốn là một núi ngụy biện. Ngụy biện (fallacy) nguy hiểm hơn, còn khiến người nhiễm phải nó có một lối tư duy suy nghĩ và phân tích vấn đề sai lệch. Người càng ít tranh luận thì càng khó có khả năng phát hiện lỗi ngụy biện trong tư duy của mình để chỉnh sửa. Đó là lý do ta thấy nhiều người ít nói, nhưng một khi mở miệng thì sẽ đuối lý và kết quả là chỉ biết chửi thề, xúc phạm, tấn công cá nhân người khác mà thôi. Chúng ta thử xem xét vài ngụy biện của những người tham gia buổi “đấu tố” mang tên “Chia sẻ trên mạng xã hội để làm gì?” trong chương trình “60 phút mở” của VTV đang gây xôn xao dư luận.