Gần
20 năm rời xa công việc sáng tác, Trần Kim Trắc ngỡ có thể sống cần mẫn suốt
đời như bao người nông dân đồng hương Chợ Gạo – Tiền Giang của mình. Thế nhưng,
chữ nghĩa như một cái nghiệp đeo đẳng, Trần Kim Trắc túc tắc viết lại. Những
trang văn chắt chiu từ sự từng trải và sự suy nghiệm của ông khiến độc giả bao
phen thích thú và đồng nghiệp cũng lắm phen giật mình. Hai tập truyện ngắn “Ông
Thiềm Thừ” và “Hoàng đế ướt long bào” thể hiện đầy đủ phong cách văn chương của
Trần Kim Trắc, vừa hóm hỉnh sâu cay vừa ưu tư gợi mở. Khi cuộc thi truyện ngắn
“Con người và cuộc sống hôm nay” do báo Sài Gòn Giải Phóng đăng cai được chính
thức phát động, thì nhà văn Trần Kim Trắc đã ở tuổi 82. Cuộc thi kéo dài 1,5
năm và ông được giải nhì đồng hạng ( không có giải nhất) với truyện ngắn “Sài
Gòn đắt địa”.
TRẦN KIM TRẮC VÀ “SÀI GÒN ĐẮC ĐỊA”
LÊ THIẾU NHƠN
Với truyện ngắn “Cái lu” đoạt giải thưởng
Văn Nghệ Cửu Long năm 1952, anh bộ đội Trần Kim Trắc của Tiểu đoàn 307 lừng
danh bắt đầu bước chân vào văn chương. Sau năm 1954 tập kết ra Bắc, nhà văn
Trần Kim Trắc trở thành cán bộ của tạp chí Văn Nghệ Quân Đội. Thế nhưng, vì
phải lòng một người con gái mặn mà, Trần Kim Trắc từ giã ngôi nhà số 4 đầy mê
dụ đối với dân cầm bút, để đi theo tiếng gọi tình yêu lên tận Tuyên Quang lập
nghiệp. Hành trang đuổi bắt hạnh phúc
của Trần Kim Trắc chỉ có một gói nấm mốc làm men nước chấm và một cái thùng gỗ
nuôi ong, và ông đã sống những năm cuối thập niên 1960 và những năm đầu thập
niên 1970 trong căn nhà nhỏ cạnh hồ Nông Tiến bằng nghề sản xuất nông sản. Cứ
ba ngày thì Trần Kim Trắc làm được một lu nước chấm, làm bao nhiêu bán hết bấy
nhiêu. Nếu tiếp tục duy trì, thì không khéo đến hôm nay ông đã sở hữu một
thương hiệu nước chấm lừng danh hơn cả nước tương Chinsu hay nước mắm Nam
Dương!
Chuyển sang nuôi ong, với cái thùng gỗ ban
đầu, ông Trần Kim Trắc thuần dưỡng ong rừng thành ong nhà, và nhanh chóng được
biết đến như một vua ong ở bến đò Bình Ca. Tháng 7-1975, vợ chồng nhà văn Trần
Kim Trắc để lại sản nghiệp cho họ hàng, chỉ mang 20 đàn ong hành phương Nam. Và
đến già, nhà văn Trần Kim Trắc vẫn sống thảnh thơi với nghề nuôi ong. Căn nhà
của ông ở Sài Gòn không cần treo biển, không cần quảng cáo mà vẫn có người tìm
đến mua mật ong dinh dưỡng bảo đảm chất lượng lẫn bảo đảm uy tín!
Gần 20 năm rời xa công việc sáng tác, Trần
Kim Trắc ngỡ có thể sống cần mẫn suốt đời như bao người nông dân đồng hương Chợ
Gạo – Tiền Giang của mình. Thế nhưng, chữ nghĩa như một cái nghiệp đeo đẳng, Trần
Kim Trắc túc tắc viết lại. Những trang văn chắt chiu từ sự từng trải và sự suy
nghiệm của ông khiến độc giả bao phen thích thú và đồng nghiệp cũng lắm phen
giật mình. Hai tập truyện ngắn “Ông Thiềm Thừ” và “Hoàng đế ướt long bào” thể
hiện đầy đủ phong cách văn chương của Trần Kim Trắc, vừa hóm hỉnh sâu cay vừa
ưu tư gợi mở.
Khi cuộc thi truyện ngắn “Con người và cuộc
sống hôm nay” do báo Sài Gòn Giải Phóng đăng cai được chính thức phát động, thì
nhà văn Trần Kim Trắc đã ở tuổi 82. Cuộc thi kéo dài 1,5 năm và ông được giải
nhì đồng hạng ( không có giải nhất) với truyện ngắn “Sài Gòn đắt địa”. Nhà văn
Trần Kim Trắc phát biểu cảm tưởng lúc tuổi 84 vẫn còn có dịp ngất ngưởng văn
đàn: “Tôi giờ già hay nghĩa vẩn vơ. Mỗi khi nhìn thấy xe cộ nhộn nhịp ngoài
đường, tôi tự hỏi không biết phía dưới những cái mũ bảo hiểm kia là những cái
đầu đang băn khoăn điều gì, đang thắc thỏm điều gì. Nhà văn không phải ông thầy
của bất kỳ ai. Nhà văn chỉ chọc ngứa tâm hồn cho bạn đọc, để họ tự thức tỉnh và
tự nâng cao phẩm giá làm người”. Truyện ngắn “Sài Gòn đắc địa” khai thác đúng
quan niệm ấy. Câu chuyện thời sự về xuất khẩu cô dâu Việt được nhìn qua ống
kính cánh xe ôm để có những lý giải ân tình chất phác và gửi gắm những mơ ước đẹp
đẽ.
So với tài năng đã được định hình như Trần
Kim Trắc, thì truyện ngắn “Sài Gòn đắc địa” không phải quá xuất sắc. Tuy nhiên,
đọc “Sài Gòn đắc địa” vẫn nhận diện được bút pháp Trần Kim Trắc, từ
cách dẫn dắt tếu táo “đừng tưởng rằng dân
xe ôm chỉ biết có rù ga hứng những núm vú thỉnh thoảng ịn vào lưng là không có
tính linh hoạt văn hóa chính trị thời cuộc. Thử tính nếu sáng sớm họ ngưng mua
báo xem các tờ báo lớn hàng ngày có điêu đứng không?” đến cách thắt nút
tình huống “Thím Năm tài thiệt đó, dám
bắt rể từ bên Tây về nuôi phởn phơ béo tốt thế này” và cả cách sử dụng
không gian kết thúc ấm áp “chỉ cần nước
sôi pha trà thôi mà tình làng nghĩa xóm đổi trao xôm tụ lắm”.
“Sài Gòn đắc địa”
thành công ngay từ cái tên truyện, nói theo ngôn ngữ hiện đại là “ngon lành
cành đào”. Nếu không bị giới hạn theo thể lệ cuộc thi “tác phẩm không dài
quá 1800 từ”, có lẽ Trần Kim Trắc sẽ xây dựng “Sài Gòn đắc địa” theo bề thế
hơn và đầy đặn hơn!
1-2-2013
SÀI GÒN ĐẮC ĐỊA
Truyện ngắn của TRẦN KIM TRẮC
Góc ngã ba nối liền con đường lớn và ngõ hẻm có một vỉa hè
lát gạch rộng rãi, giữa còn giữ lại một gốc sao dầu tỏa bóng mát là nơi cánh xe
ôm tập trung chờ khách, đông đủ là năm xe. Thời buổi kinh tế này, đô thị như
cái ao trũng, nước ở khắp nơi đổ về, tốt xấu đủ cả nhưng đều sống theo câu hò
xưa:
Đến đây thì ở lại đây
Chừng nào bén rễ xanh cây hãy về
Đừng tưởng rằng dân xe ôm chỉ biết có rù ga hứng những núm
vú thỉnh thoảng ịn vào lưng là không có tính linh hoạt văn hóa chính trị thời
cuộc. Thử tính nếu sáng sớm họ ngưng mua báo xem các tờ báo lớn hàng ngày có
điêu đứng không?
Gần đây, cánh xe ôm lo lắng vì nạn lấy chồng ngoại của gái
đẹp ở những vùng đất nghèo.
- Tại anh em mình, đã ít tiền lại không ga-lăng nên chị em
họ buồn, kiếm cách đổi đời bằng việc lấy chồng ngoại thôi.
Nói là nói vậy cho có vẻ dân thành thị am hiểu thời cuộc
nhưng thật ra mỗi người đều có chút đắng lòng vì cảnh ngộ quê nghèo. Xưa, mỗi
một Nguyệt Nga đi cống Hồ phiên quốc mà nhân gian đã dậy sóng ba đào, huống chi
nay hàng vạn nữ nhi biệt xứ nơi xa lạ, bị chọn mua như con cá, lá rau.
Năm anh em tổ xe ôm có Hai Được, Tư Đen, Ba Đồng, Năm Hoàng
và ông Lục Tàu lai.
Xe ôm thời hiện đại bắt khách bằng điện thoại cầm tay.
Hai Được có ông khách quen Việt kiều Úc mang họ Phạm năm nào
cũng về Việt Nam đôi ba lần, mỗi lần lưu lại Sài Gòn cả tháng, đi đâu cũng gọi
ông, trả tiền xe không cần thối, lại còn kéo vào quán cà phê vỉa hè, để qua cái
miệng tía lia của anh chàng vui tính nghiên cứu bổ sung tình hình quê nhà. Anh
xe ôm thở than về chuyện gái miệt vườn rủ nhau lấy chồng Đài Loan (Trung Quốc),
Hàn Quốc, còn nói: “Ông ở xứ văn minh về, hiểu biết nhiều, ông góp ý xem phải
làm sao đây”. Ông họ Phạm nói:
- Không chỉ Hàn Quốc, Đài Loan thôi đâu. Dân Việt kiều hải
ngoại cũng rần rần về kiếm con gái Việt Nam rước ra nước ngoài làm vợ.
Nhưng các chị em đừng lo không có người phất cờ đi đầu bảo vệ quyền bình đẳng
của chị em phụ nữ. Đó là thím Năm - vợ của chú Út tôi. Thím chủ trương gả bắt
rể. Có thật lòng yêu nhau thì khăn gói đến nhà bà ở rể làm ăn, sinh con nuôi
lớn. Mối lái môi giới hôn nhân đặt lễ hàng chục triệu bà cho de tất, đến bây
giờ cô Quỳnh Hương, con gái út của bà được một Việt kiều ở Pháp - Trancois
Nhiều - về cưới, nhập quốc tịch Việt Nam, ở rể ngay trên đất hương hỏa
nhà bà.
Ông Lục Tàu lai hưởng ứng ngay: “Có vậy đó. Ngày trước người
như bà Năm gả con đòi bắt rể nhiều lắm mà. Không có các bà ấy làm gì Sài Gòn có
Chợ Lớn như bây giờ”.
Chuyện đời nghe chính người trong cuộc kể lại mới vui. Anh
Tư Đen của tổ xe ôm kể: Nói các cha không tin, nhưng thật ra vợ tôi bây giờ
hàng ngày đi giao bánh mì chứ trước cũng là một cô gái Cà Mau bị người ta môi
giới gả bán cho người Hàn Quốc. Bữa ấy, tôi đang vừa chạy xe vừa ngóng khách,
bỗng có một cô gái từ khách sạn tư nhân bên đường ra vẫy gọi, chưa kịp hãm
phanh cô đã nhảy phốc lên xe, giục đi nhanh lên, hỏi đi đâu cô bảo đi về Long
An. Xe đến xa cảng, cô vỗ lưng bảo dừng lại: “Thú thật với anh, em còn có hai
mươi ngàn, anh vui lòng cầm lấy, đi nữa em không có tiền trả cho anh đâu”. Cô
nói mà rơm rớm nước mắt, tội con nhà nghèo chả lẽ vô tâm, xuống đây rồi cô đi
đâu? '
Còn biết đi đâu nữa? Em đang chạy trốn để khỏi bị gả bán cho
nước ngoài. Chỗ em vẫy xe anh là nơi họ tập hợp gái quê lại cho bọn Hàn Quốc và
Đài Loan già khú đế coi mắt, mua về xứ nó làm vợ, em thừa lúc họ sơ ý lẻn trốn,
may nhờ gặp anh. Thân gái dặm trường, đường sá lạ hoắc, tiền không có em đi thế
này không ổn đâu! Anh cũng là dân nghèo dưới quê lên, nếu em tin tưởng, tạm về
nhà anh ẩn mặt đi một thời gian rồi sau sẽ tính. Vậy là cô ấy theo tôi về nhà
trọ bên quận 4 cho đến bây giờ, chồng chạy xe ôm vợ đi giao bánh mì bằng xe đạp,
sống ngon ơ. Mỗi khi ôm tôi, cô ấy thường thốt lên rằng chúng tôi có được nhau
do ông trời sắp đặt. Tôi là kẻ vô thần không tin có thế giới bên kia nhưng mỗi
khi nghe câu nói tâm linh về tình yêu ấy, tôi cũng thấy khoái chí.
Dịp Tết Tân Mão, ông họ Phạm bên Úc lại du lịch về quê thăm
lần nữa. Từ Sài Gòn về miền Tây, ông không bao taxi nữa mà rủ Hai Được chở đi.
Không phải tiếc tiền mà ông muốn thăm thú nhiều nơi, người thân bạn bè ở các
thôn xóm và có người lái xe thuyết minh chuyện quê hương khắp nẻo.
Đây rồi, đi nửa vòng trái đất lại gặp nhau, muôn nẻo về một
mối. Trước nhất cho mình rảo một vòng xem cơ ngơi thím Năm cho mãn nhãn, chuyện
trò cho đã. Biệt thự khang trang, đầy đủ tiện nghi, sân vườn đầy hoa trái lại
có bàn tay tiên chăm sóc còn gì bằng. Hai người đi bên hông nhà, dọc theo một
hàng lu chứa nước mưa, ra sau bếp chào: “Thưa thím Năm! Chúc mừng thím mạnh
khỏe! Con và anh lái xe xin đăng ký ở lại hai ngày để được thưởng thức tài nấu
nướng của thím, nhớ lại mùi vị quê hương. Thím Năm tài thiệt đó, dám bắt rể từ
bên Tây về nuôi phởn phơ béo tốt thế này…
Vào phòng khách, chàng rể Việt kiều mới thổ lộ: “Tôi mơ
tưởng hình bóng cánh hoa trắng, nhụy sen vàng, kẻ si tình này từ bên kia trỗi
dậy, một mình xách va ly bay về quê hương xin được ở rể. Ngày đầu tiên được ăn
bữa cơm canh chua cá kho tộ. Thằng bé mừng rơn lại xộ ra một câu không hiện đại
tí nào: “Quỳnh Hương ơi! Em đã từng yêu ai chưa?”. Yêu làm sao được khi mà má
em quả quyết đòi bắt rể”.
- Nói nghe coi! Từ ngày được bắt rể, anh cảm nhận như thế nào?
- Tuyệt vời chứ như thế nào nữa. Có gì đáng hãnh diện cho
thằng đàn ông bằng có vợ đẹp. Nàng là giáo làng mà có vẻ kiêu sa như người đẹp
chính khách.
- Ngôn ngữ thời thượng có khác đây, sao lại gọi là người đẹp
chính khách.
- Chính khách là phải đẹp, người đẹp là phải có trình độ
chính khách như bà Nguyễn Thị Bình, Tôn Nữ Thị Ninh, bà Bhutto, chứ béo trục
béo tròn cái mặt chần vần mà đại diện quốc gia đi ngoại giao thì mất thể diện
hết. Quỳnh Hương của tôi nhìn ảnh đã ngất ngây, về nước tận mặt rồi còn hết ý.
Rõ mặt đàn bà nước Nam.
Trancois Nhiều nói tiếp: Cái sướng nữa của kẻ lá rụng về cội
như tôi là đã hiện thực hóa được một sa lông văn hóa tại ngôi nhà mới của mình,
anh em trang lứa, bà con cô bác trong làng hợp ý với mình, định kỳ đến nói
chuyện chơi như một câu lạc bộ, có tốn kém gì chỉ cần nước sôi pha trà thôi mà
tình làng nghĩa xóm đổi trao xôm tụ lắm. Tôi phục lăn bà con nông dân xứ mình
là những cây hài hước rất tầm cỡ.