Cách đây cũng đã mươi, mười lăm
năm, một lần về Mỹ Tho công tác, cặp vợ chồng nhạc sỹ Lư Nhất Vũ và Lê Giang rủ
tôi tới dự một đêm biểu diễn của Đội văn nghệ Sở Văn hóa- Du lịch- Thể thao
tỉnh Tiền Giang. Tình cờ trên sân khấu vang lên những lời ca khiến tôi sởn gai
gà: “Người
chiến sỹ ra đi vượt dốc, băng sông, xuyên rừng, lội suối ta cứ đi.. Ta ra đi dù chân không giầy mà đầu đội trời
ta cứ đi.. Bao tang tóc đang trùm
miền Nam
yêu dấu, Trước mắt ta quân thù dày xéo, quê hương ta khổ đau…”. Tôi càng
xúc động hơn khi tiết mục này vừa chấm dứt, giữa những tràng vỗ tay nồng nhiệt,
một người đàn ông cao gày đứng lên và đấy là lần đầu tiên tôi được gặp tác giả
của bài ca “ Ta là chiến sỹ Giải phóng
quân”- nhạc sỹ Văn Lưu, người con đầy tự hào của mảnh đất Tiền Giang –quê
hương của chiến công Ấp Bắc oai hùng.
VỊN THEO CÂU HÁT MÀ ĐI…
TÔ HOÀNG
Tôi
còn nhớ rõ bài ca này lần đầu phát đi trên làn sóng của Đài Tiếng nói Việt nam
vào mùa hè năm 1966 với giọng ca sôi nổi, trầm ấm của ca sỹ Trần Thụ trong sự
phụ họa của dàn hợp xướng Đoàn ca múa Trung ương. Vào thời điểm ấy, 50 vạn lính
viễn chinh Mỹ từ ngoài biển vừa đặt chân lên bán đảo Sơn Trà ( Đà nẵng ). Mỹ
công khai lộ rõ bộ mặt xâm lược và dân tộc chúng ta đang đứng trước một thử
thách mới: sẽ đương đầu ra sao đây với một đối thủ có tiềm năng quân sự giàu mạnh,
hiện đại nhất thế giới?
Những
người lính trẻ của Sư đoàn 316 chúng tôi cũng vừa hoàn thành xong khóa huấn
luyện đánh địch trên mọi địa hình, đang ngày đêm đeo ba lô gạch trên vai leo
lên dốc cao, vượt qua suối dữ, rèn luyện đôi vai, đôi chân để vượt Trường Sơn.Bài
ca “ Ta là chiến sỹ Giải phóng quân”
vang lên thiêng liêng, giục giã, hệt vừa như một lời hịch của Tổ Quốc, Non
sông; lại vừa như tiếng nói rủ rỉ, tâm tình phát khởi từ huyết mạch, tâm can
của mỗi ngưới lính chúng tôi…
Không
thể đếm hết, nhớ hết những bài ca như thế cùng với giọng ca của những tên tuổi
Trần Hiếu, Trần Khánh, Bích Liên, Vũ Dậu, Thanh Huyền, Tuyết Thanh, Tường Vy,
Trung Kiên, Quý Dương, Quang Hưng…Không thể quên được những tên tuổi các nhạc
sỹ như Huy Du, Hoàng Hiệp, Hồ Bắc, Doãn Nho, Nguyễn văn Tý,Huy Thục, Hoàng Vân,
Thuận Yến, Xuân Hồng, Phạm Minh Tuấn, Lư Nhất Vũ …những người đã viết ra những
bài hát hay để chúng tôi mang theo vào trận đánh.
Thuở
vượt Trường Sơn nào ai dám tơ tưởng có một chiếc mobiphone bỏ lọt túi áo ngực
với đôi tai nghe nhỏ xinh giống hai hạt ngô nếp như của các bạn trẻ bây
giờ.Khẩu súng, bao gạo, chiếc ba lô cóc sau lưng, đi bộ cả tháng trời, vượt dốc
cao, thác dữ ..ấy thế mà cứ nghe tiếng hát từ chiếc đài bán dẫn của ai đó vọng
tới, lập tức thấy bước chân nhẹ tênh, mệt nhọc bay biến cả. Đi chậm lại chờ ai
đó có chiếc đài đi lên cùng, rồi bám sát gót để được nghe nhạc đến tận lúc buổi
ca nhạc kết thúc. Sang chiều, vai nhức, chân mỏi, nếu nghe dưới thung sâu vọng lên
tiếng hát trên đài, biết ngay đã đến trạm giao liên. Ở trạm nọ các em giao liên
kể, năm trước ca sỹ Tô Lan Phương qua đây đã hát cho nhân viên của trạm và
khách trạm nghe trọn một đêm. Nữ ca sỹ hát nhiều, hát hay đến độ hai hàm răng
sáng bóng hẳn lên- nói theo cách đùa tếu của lính tráng. Qua vài trạm sau râm
ran câu chuyện truyền miệng, nữ diễn viên của Đoàn ca múa Tổng Cục chính trị Kim
Cúc vừa biểu diễn xong một bài ca thì nhận được tin chồng chị hy sinh vì đoàn
xe vận tải đang đi vào do anh chỉ huy bị trúng bom ngay lúc chập tối. Nữ diễn
viên xỉu ngất chừng ba mươi giây, tỉnh lại chị gượng lau vội nước mắt, bước ra
giữa đám đông với vẻ bình tĩnh như không có chuyện xẩy ra, hát tiếp bài thứ
hai, thứ ba theo yêu cầu của khách trạm...
Những
năm tháng đó chiếc radio bán dẫn là vật vô cùng quý. Mỗi đại đội chỉ được trang
bị một chiếc, do chính trị viên giữ. Ở các mặt trận phía Bắc chiếc đài mang
nhãn hiệu Orionton do Hungari sản xuất. Lui vào phía Nam là chiếc radio mang nhãn
National. Vào những lúc đài phát đi chương trình ca nhạc, dù lính tráng không
thể nào bỏ qua, cũng không thể ngồi túm tụm cả trăm con người mà nghe được. Một
loạt bom tọa độ, một loạt pháo bày “đánh đáo” trúng hầm là “đi đoong” hết.Cái
khó đẻ ra cái khôn. Ông chính trị viên dùng một mảnh tre gài ống tổ hợp của máy
điện thoại lại, để cạnh chiếc rađio. Đưởng giây điện thoại dẫn tiếng nhạc xuống
lán hầm của từng tiểu đội. Chiến sỹ lấy vỏ hộp thịt mài mỏng tang đi, thả ống
tổ hợp vào đó, tiếng hát bỗng vang to hơn,mọi người đều nghe thấy.
Có
cả trăm “ tình huống” xẩy ra trong cuộc đời trận mạc thì cũng có tới cả trăm
trường hợp lính tráng thưởng thức ca nhạc rất khác nhau.
Hồi
còn ở mặt trận Đường Chín-Khe Sanh, tôi đã được nghe một đồng đội kể lại, cậu
ta đã thoát chết sau một trận cường tập bị lạc đội ngũ ra sao. Đêm tối kịt, chỉ
còn biết nhìn sao trời định hướng để lần qua bờ Bắc sông Hiền Lương. Bỗng nghe
sau lũy tre văng vẳng tiếng đài véo von, hết “ Ru con”của nhạc sỹ Nguyễn văn Tý, tiếp tới “ Quảng bình quê ta ơi” của nhạc sỹ Hoàng Vân. Đầu óc mu mơ, căng
thẳng sau trận đánh không hiểu sao cứ ngỡ rằng đã sang tới đất Vĩnh Linh. Mừng
hú liền đứng thằng người, sầm sập lao tới. Những loạt AR.15 từ phía trước rát
rạt quét ra. Tiếng chó sủa, tiếng quát thét đuổi bắt inh ỏi. Chạy thục mạng. Sau
này nghe cơ sở bên bờ Nam
kể lại, bọn dân vệ ở ấp chiến lược ấy rất thích nghe nhạc cách mạng.
Trường
hợp bị mổ xẻ, bị cưa cắt lóng xương chân xương tay mà không có thuốc gây mê, thương
binh yêu cầu cô y tá, hộ lý hát cho nghe và cắn răng chịu cơn đau cũng là
chuyện thường gặp ở các viện quân y trong rừng, các trạm phẫu thuật dã chiến.
Cô y tá, cô hộ lý nghẹn ngào hát, tay quệt vội dòng nước mắt, khi nhìn xuống bàn
mổ thấy gương mặt anh lính trẻ mét tái dần, hai hàm răng nghiến vành môi đến
bật máu, đôi tay bấu chặt lấy mép bàn mổ.Cô gái hát tới bài thứ tư ca mổ vẫn
chưa kết thúc để rồi chính cô gái ngất xỉu phải vực lên băng ca đưa đi. Lại
cũng có ca cô y tá, hộ lý mới bắt sang bài thứ hai, bác sỹ phụ trách ca mổ đã
ra dấu ngưng lại vì anh lính trẻ nằm trên bàn mổ đã trút hơi thở cuối cùng...
Những năm sau
chiến tranh tính toán, ngẫm nghĩ, mới chợt nhận ra cái gia tài của người lính
thuở ấy sao đơn sơ, sao nghèo nàn đến thế? Trong chiếc ba lô lính, ngoài cơ số
đạn, cơ số gạo mang theo, còn gì nữa đâu ngoài một bộ quân phục, một chiếc tăng
che mưa, một chiếc võng vừa để anh ngủ giữa rừng; vừa để đồng đội khiêng cáng
anh khi bị thương; cũng là để quấn bọc quanh anh với ba nút thắt quanh cổ,
ngang bụng, quanh kheo chân để chôn nông, vùi cạn anh, tiễn biệt anh về trong
lòng đất mẹ. Bao giờ cũng vậy, gấp chèn trong bộ quân phục là thứ tài sản quý
giá nhất: tệp thư của cha mẹ, của người yêu được kẹp giữa cuốn sổ chép cơ man
những bài hát anh lính không thể quên, đã học thuộc lòng. Nhiều bài hát trong
số đó anh đã hát cùng người bạn gái thời kỳ đang học mấy năm cuối hệ mười năm.
Có những bài bạn gái hát tặng anh vào buổi tối anh sắp lên đường như một lời hò
hẹn thủy chung mà chỉ hai người biết với nhau. Chép thêm vào cuốn sổ những bài
hát anh thuộc từ ngày vào chiến trường, anh rất yêu thích, những bài hát như
lời tâm tình, như nỗi lòng anh muốn gửi tới người yêu nơi quê nhà mà không có
cách nào gửi tới qua không gian cả ngàn cây số vời vợi.
Không quên được
những đận đói muối, đói cơm mắt mờ dần, chân tay run rẩy; những đêm mưa rừng bị
cơn sốt rét quật ngã; những phút giây căng thẳng, nặng nề sau một mùa khô chiến
dịch tổn thất nhiều, ngồi bó gối “ cạo nhau” vì hữu khuynh, tiêu cực, vì “ giảm
sút ý chí chiến đấu”…
Vào những lúc
như thế, hậu phương lớn như hiển hiện qua những lời ca. Và hiển hiện cả những
gương mặt sương nắng tần tảo mà dịu dàng, nhân hậu; những tấm lòng dũng cảm,
đức hy sinh vô bờ của những bà má Bến tre, những người chị Hậu giang theo lời
ca, tiếng hát bỗng sưởi ấm tấm lòng người lính, vực đỡ anh nghiến răng đứng dậy
đi tiếp.
Mà tài tình, mà
phân phối nhậy bén, mau lẹ thật! Này nhé, Lính Hà Tây thì có “Hà Tây quê lụa”; lính Thái Bình thì có “Bài ca năm tấn”, lính Thanh Hóa đã có dô
tá dô tà những “ Chào sông Mã anh hùng”, “Noi
gương Nguyễn Bá Ngọc”; lính Vĩnh phú có “Tấm áo mẹ vá năm xưa”; lính Quảng bình có ngay “Quảng bình quê ta ơi”; lính ‘cá gỗ” ư,
thì đây “ Chào em cô gái Lam Hồng”, “Cua đá, cá đua”… Cậu ở miền tây sông
nước, cậu ở ven đô Sài gòn ư? Đã có “Qua
sông”, “Cô gái Sài gòn đi tải đạn”,
“Vàm Cỏ đông”…
Thôi thúc, giục
giã có. Thủ thỉ, tâm tình, thay lời cha mẹ ta, anh chị em ta ở hậu phương
khuyên nhủ ta hãy đứng vững trước mũi tên hòn đạn, hãy xứng đáng tỏ mặt” nam
nhi thời loạn”. Hậu phương xích lại gần tiền tuyến. Bắc Nam như xích lại gần nhau. Đón nhận
mà vượt lên những thử thách, khó khăn sắp tới.Hồ hởi chào đón vận hội mới…Trong
các bài hát tìm thấy đủ cả.
Lo súng đạn,
lương thực, thuốc men, xăng nhớt cung cấp đủ cho mỗi mùa chiến dịch. Lo tìm cách
đánh bại các chiến thuật “Bủa lưới phóng lao”, “Phượng hoàng vồ mồi”, “Trực
thăng vận”…của đối phương. Lo vừa đánh vừa hòa đàm để giành cơ hội tái lập hòa
bình, thống nhất non sông. Trong muôn ngàn cái lo ấy, vẫn phải lo đủ pin cấp
phát cho chiếc radio của từng đại đội, lo tổ chức các đội Tuyên văn ở các Trung
đoàn, Sư đoàn; các đội văn công ở các Quân binh chủng, các Mặt trận. Cùng đạn
gạo, thuốc men, vượt qua các tọa điểm lửa trên đường Trường sơn, “ hàng” cấp
cho các chiến trường còn có cả những chiếc ghi ta, cây sáo trúc, chiếc nhị,
những bộ trống, những tờ bướm in những bài nhạc mới…” Những ai đã trải qua năm
tháng chiến tranh dễ dàng hiểu rằng “slogan” một thuở
Tiếng hát át tiếng bom không
phải là một khẩu hiệu lên gân, trống rỗng, mà là một việc cần, làm rất thiết
thực, rất cụ thể. Bởi những bài hát thời đạn bom thực sự cần thiết với người
lính. Như khí trời, nước uống, như miếng cơm ăn hàng ngày.
Mình đã lẩm cẩm,
lú lẩn chưa đây mà nhiều lúc được nghe bài hát thân thương một thời phát ra từ màn
ảnh nhỏ, hoặc trên làn sóng truyền thanh bỗng tự hỏi mình: Sao thuở ấy có nhiều
bài hát hay, dễ thuộc, dễ nhớ mà khó quên đến thế? Nói chuyện ì ầm súng đạn;
chuyện phân gio, đồng áng của người vợ ở nhà gánh vác công việc của người chồng ra trận; chuyện các cháu nhỏ đi học đầu
đội mũ rơm phòng tránh bom bi, chuyện mẻ bèo tấm, đàn cá quẫy dưới ao…Chuyện gì
cũng có thể thành lời ca tiếng hát. Mà sao không hời hợt, không lớt phớt,qua
loa; mà sao đi được vào ngóc ngách tâm tư, cảm xúc của cả triệu con người đang
lo toan việc lớn. Thì cứ cho rằng những người viết ra các bài hát kia làm theo
yêu cầu tuyên truyền, cổ động; viết theo gợi ý; viết nhân phong trào này, đợt
phát động nọ..Ví như không có rung cảm, không có sự đồng điệu của cái riêng với
cái chung, ví như lòng mình không tự cất lên tiếng hát trước, sao có thể khiến
mọi người hát theo?
…Em chẳng có chi làm quà,
có chi hơn là hát một bài ca…
Nhớ mãi những bờ
vai hình chuông gọn ấm một vòng tay ôm; những bộ ngực trinh nữ phập phồng theo
hơi thở nhẹ dưới lớp áo bà ba nhuộm màu vỏ đà; những tấm khăn rằn buộc trễ nải như
muốn khoe ra chiếc cần cổ vóng cao như bụp măng sau mùa mưa…
Nhớ mãi những
gương mặt xinh tươi, những nụ cười khoe chiếc răng khểnh, những ánh mắt gửi gắm
đầy cảm thông, thương xót…
Các em gái văn
công Mặt trận đã hát câu hát ấy trong vẻ bịn rịn, quyến luyến chia tay với
chúng tôi để ngày mai Trung đoàn đánh lên cao điểm vỏ cứng trên đỉnh Ngọc Rinh
Rua, mở đường tràn xuống thị xã Kontum. Buổi chia tay còn dùng dắng kéo dài
trong cánh rừng đêm. Nắm chặt những bàn tay thon thả, nồng ấm của các em gái, những
thằng lính to con, kềnh càng và cũng
ngang bướng, quả cảm nhất đơn vị bỗng nói trong cơn nấc nghẹn: “Bài hát các em tặng bọn anh đêm nay là quý giá nhất rồi!”... “Các em yên tâm
đi, bọn anh không hèn nhát, thoái lui đâu”... “Dù có ngã xuống ngay trong trận
đánh tối mai, bọn anh sẽ mãi mãi mang theo tiếng hát của các em!”.