Câu chuyện quá khứ còn hằn rõ trong ký ức nhà thơ Nguyễn Đức
Tùng: “Đôi khi tôi chợt nghĩ hay cô là cô Mai, nhân vật của Khái Hưng trong Nửa
Chừng Xuân, con ông Tú ngoài Ninh Bắc? Có em trai học trường Bảo hộ, tức trường
Bưởi, nhà nghèo vì cha mất sớm, đem lòng yêu Lộc, nhưng rồi chuyện hai người không
thành. Cô Mai đẹp, dịu dàng, cương nghị, trái tim đầy tình yêu thanh sạch. Có
lúc tôi ước làm cậu Huy em trai của cô, đứa em học trò nghèo thương chị đến ứa
nước mắt. Tôi ngồi nhìn những chiếc máy chữ nghiêm trang nằm ngoan ngoãn dưới hai
bàn tay lượn nhấp nhô như sóng, cô dùng tám hay mười ngón để gõ phím, cổ tay
thoăn thoắt đưa đi đưa lại, những cái cần bằng kim loại xám óng ánh nhảy nhót
như vũ nữ phim Ấn Độ”.
NGƯỜI
ĐÁNH MÁY CHỮ
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Cô ngồi trước ba máy đánh chữ, cái trước mặt màu kem đã sờn,
hai cái xanh ngọc hai bên còn mới. Bàn làm việc hướng vào vách, bên phải là cửa
sổ nhìn ra con đường tráng xi măng cũ gần bến đò. Tôi hay đứng ngoài hiên tránh
mưa nhìn vào, máy chữ chạy rì rào, cô nghiêng nửa mặt có chấm tàn nhang tím. Chỗ
làm việc là góc thừa ra của tiệm thuốc Nguyệt quế đường, vừa vặn đặt cái bàn, cái
ghế, phía trong là kệ sắt cao đầy giấy tờ. Tôi ngắm những tờ giấy carbon đen sẫm
trong mùi cam thảo, quế, táo tàu bay qua. Cô nói giọng Hà Nội, khoảng bốn mươi
tuổi, gầy mảnh mai, tóc búi lên, gương mặt khô khan nhưng hiền, ít nói vì bận
việc, một cái lông nhím vàng hổ phách trong suốt kẹp xuyên qua búi tóc. Cô mặc
áo dài màu xanh bông lý, màu mận chín, ngón tay dài, lưng bàn tay những đường
gân nổi lên như tay đàn ông, không nhẫn. Khi đã quen, cô gọi tôi vào chơi nhờ
việc vặt, phần thưởng là tờ giấy carbon dùng nhiều lần đã bạc màu nhưng tôi quý
lắm, ôi những tờ giấy carbon tôi dùng để đồ những hình vẽ thật đẹp làm tụi bạn
lác mắt. Máy đánh chữ hiếm, đơn từ nộp công sở đều dùng giấy in nên việc lúc
nào cũng bận, có lẽ vì thế mà cô cần ba máy một lúc, cái thì hôn thú, cái đơn
xin việc, cái “thế vì khai sinh”. Công việc là đánh máy nhưng cô làm nhiều hơn,
giúp sửa lỗi chính tả, sửa câu văn, cố vấn nhiều thứ linh tinh từ việc làm ăn đến
hôn nhân tình cảm, có người đến tay không chỉ nói ý mình, cô liền thảo tờ đơn tự
cô nghĩ ra. Một người khách giọng khàn vì thuốc lá, đứng sau lưng cô đọc ngắt
quãng, ho vì lên cơn suyễn: Đơn xin hoãn
dịch vì lý do gia cảnh…Họ tên con tôi: Nguyễn Văn…Năm sinh…Chánh quán…Trú quán…Tôi
làm đơn này xin chính phủ xem xét hoãn dịch cho con tôi vì trong nhà chỉ có
mình nó là con trai, không ai nối dõi tông đường, mẹ nó hay đau, con gái có ba
đứa nhưng không tính. Cô quay lại: sao bác nói ba đứa con gái không tính, người
đàn ông cười: thì cô sửa lại giùm.
Cô có mấy chồng báo cũ để người chờ lật coi cho đỡ nóng ruột.
Tôi ngồi trên chiếc ghế nhỏ sau kẹt cửa, đọc các tạp chí như Tự Do của chính phủ
có ảnh đẹp, Hương Quê của bộ Thông tin đều đặn có truyện ngắn đồng quê của Bình
Nguyên Lộc hoặc Sơn Nam, các nhật trình như Độc lập, Hòa bình, Sóng thần, Công
luận, ngắm mấy tờ carbon, lắng nghe cuộc chuyện trò khi lớn lúc khẽ giữa cô và
khách hàng. Thỉnh thoảng cô đứng dậy bật bếp lửa dầu hỏa ở góc nhà, chùm lửa
xanh ngọn nhỏ liu riu, đun nước sôi pha trà Thiết Quan Âm trong ấm sành, cho tôi
uống, di chuyển mau lẹ giữa những chồng giấy cao ngất. Hiệu của cô không tên, không
có chỗ ngồi rộng rãi, ở trên đường vắng chạy ra bờ sông, không quảng cáo nhưng người
có việc cần đều biết cách tìm đến. Ngoài hiên một cây dâu tằm cổ thụ cao rợp
mát, những trái dâu đỏ mọng ngọt lịm, lá xanh mềm mại ngày nay không thấy nữa. Ngày
mưa dầm nắng gắt đi học về muộn trễ chuyến đò cả giờ, tôi quay lại ghé vào, cô im
lặng làm việc nhưng thỉnh thoảng quay nhìn tôi, mắt như cười, ấm áp. Đôi khi một
ông khách đứng tuổi lịch sự, da tái xanh, má hóp, tóc chải dầu brillantine bóng,
sơ mi trắng, cầm dù đen bất kể trời mưa hay tạnh, đứng ngoài cửa sổ trò chuyện,
đưa giấy tờ hay trả tiền gì đó, nhưng có khi chỉ nói vài câu rồi đi. Những lúc ấy
cô đứng lên, tựa người lên thành cửa, khoanh tay trước ngực trò chuyện. Sau khi
ông khách đi rồi, cô kín đáo mỉm cười, ngửa đầu ra sau, nhắm mắt lại, mở mắt, quay
về với công việc. Như thế, năm này qua năm khác, hết niên học này đến niên học
khác của tôi, như thể cuộc đời này sẽ trôi đi êm đềm như vậy mãi với cô, không
bao giờ thay đổi, không bao giờ ngừng lại, mà thay đổi cho ai, cách mạng làm
gì, chiến tranh chết chóc làm chi?
Đôi khi tôi chợt nghĩ hay cô là cô Mai, nhân vật của Khái Hưng
trong Nửa Chừng Xuân, con ông Tú ngoài Ninh Bắc? Có em trai học trường Bảo hộ,
tức trường Bưởi, nhà nghèo vì cha mất sớm, đem lòng yêu Lộc, nhưng rồi chuyện hai
người không thành. Cô Mai đẹp, dịu dàng, cương nghị, trái tim đầy tình yêu
thanh sạch. Có lúc tôi ước làm cậu Huy em trai của cô, đứa em học trò nghèo thương
chị đến ứa nước mắt. Tôi ngồi nhìn những chiếc máy chữ nghiêm trang nằm ngoan
ngoãn dưới hai bàn tay lượn nhấp nhô như sóng, cô dùng tám hay mười ngón để gõ
phím, cổ tay thoăn thoắt đưa đi đưa lại, những cái cần bằng kim loại xám óng
ánh nhảy nhót như vũ nữ phim Ấn Độ. Nhưng chiến sự đổi chiều không báo trước. Trong
hai ngày hai đêm, những đơn vị sư đoàn bộ binh trú đóng căn cứ Ái Tử và Đông Hà
hỗn loạn rút quân qua sông, bỏ lại chiến xa vũ khí, và điều đó sẽ lập lại đúng
ba năm sau ở những nơi khác, người dân, viên chức kinh hoàng di tản, họ bị pháo
kích ác liệt chặn lại trên quốc lộ, chạy lui chạy tới như kiến trên chảo rang dưới
nắng tháng tư. Không khí nóng đặc lại, hoa phượng mới ra héo rũ nhưng không
tàn, cuống non khô đi không chịu rơi xuống đất. Ngày cuối cùng trước khi ra đi tôi
lang thang trên đường không người, mặt nhựa chảy mềm dưới trời xanh bao la, sự
yên tĩnh của nó buông xuống mặt đất một không khí dị thường không ra chiến
tranh chẳng phải hòa bình, bầu trời như nhật thực, tôi đi trên đường biên, giữa
một vùng tối đen và một vùng sáng rực, nhưng cái đường biên kia di chuyển mau lẹ
quá, nó chạy vùn vụt, tôi cố đuổi theo không kịp, vấp ngã trên những hầm hố công
sự hay trên những thây người rải rác đó đây quanh quốc lộ một, gần ngã ba Long
Hưng. Đi ngược về trung tâm, tôi đến trước những địa chỉ yêu dấu, trường Bồ Đề,
Phước Môn, Thánh Tâm, Nguyễn Hoàng, hiệu sách Lương Giang, Phú Long, Tao Đàn, chào
nhau lần cuối. Chắc chỉ có mình thôi, tôi nghĩ, là đứa lẩn thẩn đi chào bến đò
chợ tỉnh nhiều bậc tam cấp đọng vảy cá trắng xóa, bốc mùi cá tanh, chào chùa Tỉnh
hội rợp bóng ngô đồng, im bặt tiếng chuông, chào tiệm vải chất đầy tơ lụa mẹ
tôi hay ghé qua, quán tiết canh vịt của ba tôi, tiệm cháo bánh canh của các chị
tôi, đứng hồi lâu trước quán bi-da của bạn bè, những hòn bi xanh đỏ lăn lóc góc
bàn, tôi cầm lên bỏ xuống.
Trong chiều nắng xế, thành phố sắp biến mất trông như huyền
thoại. Tôi đứng tần ngần trước căn nhà khang trang ngoài hiên có cây lê ki ma mỗi
mùa xuân đều nở hoa trắng của người bạn gái cùng lớp, nhìn cánh cổng sơn xanh đóng
im ỉm, lần cổng ấy ngày sau mạng nhện sẽ giăng đầy, hai con bồ câu trắng đứng rù
rì chụm đầu vào nhau trên khoảng sân gạch gần ảng nước mưa, mặt nước có một lá
sen nửa lành nửa rách. Tôi tìm đến tiệm người đánh máy chữ, cửa ra vào đóng, ổ
khóa còn nguyên nhưng cửa sổ đã bị ai mở bật tung ra, tôi nhìn quanh một lúc, leo
vào bật công tắc, không điện, có lẽ cô đã ra đi cùng lúc với hàng chục ngàn người
tị nạn chiến tranh khác nhưng cũng như họ, yên chí rằng sẽ trở lại trong vài
ngày tới, khi tình hình chiến sự yên ổn. Mùi hơi quen thuộc phảng phất, vài tờ
giấy carbon đen lả tả trên sàn nhà, tôi cầm lên kề sát mũi hít hà những tờ giấy
carbon cũ thơm phảng phất mùi hạnh đào, mùi ô mai tẩm đường, mùi quế hơi gắt, trên
bàn ba chiếc máy đánh chữ vẫn còn nguyên. Tôi tiến lại gần, nhìn xuống một tờ
giấy đang nằm trong máy giữa chừng, chiếc màu xanh ngọc bên trái, liếc qua mấy
chữ trên cùng: “Giấy từ con”. Tôi ngạc nhiên, kéo ra đọc tiếp: “Họ tên cha mẹ…Con trai của chúng tôi là…Sinh
ngày… Học sinh lớp Đệ tứ, trường…Chúng tôi làm đơn này đăng lên nhật trình để thông
cáo: kể từ ngày…chúng tôi không nhận … là con trai trong gia tộc. Lý do: không
nghe lời nghiêm phụ, bỏ bê việc học, trốn nhà theo gánh hát cải lương Kim
Chung. Nay kính trình…Ngày…”
Tôi đứng hồi lâu giữa căn phòng tối sẫm, mặt trời bên kia sông
đang xuống sau rừng dương liễu Nhan biều, ngả sang màu lửa lựu, vài con chim sẻ
kêu thảng thốt trên mái ngói, một cành cây khô rơi xuống mặt đường, nẩy bật
lên, lăn đi nhiều vòng, trong tịch mịch của phố xá bỏ hoang, những ngày bầy chim
vỡ tổ bắt đầu. Tôi nghĩ đến chàng thanh niên có lẽ chừng đôi mươi giờ này vẫn
chưa đọc được cái tin sét đánh trên báo của thân phụ anh, một người thương con
nhưng có lẽ quá nghiêm khắc, tôi nghĩ đến cha mẹ người thanh niên kia giờ phiêu
dạt nơi đâu, ga Lăng Cô hay bến tàu Đà Nẵng, hay đã tử nạn trên đường. Tôi nghĩ
đến gánh cải lương miền Nam ra trình diễn ở thành phố gần giới tuyến trong ngày
xuân thanh bình, trong gánh hát ấy biết đâu có một cô đào trẻ đẹp với giọng ca mê
hoặc, sáng hôm sau lên đường khăn gói vào Nam, không biết mình vô tình mang
theo trái tim một chàng trai Đệ tứ trung học, mê tân nhạc, vọng cổ, ghi ta, đờn
sáo hơn chuyện học hành thi cử lẩm cẩm, biết đâu sau này chàng nổi tiếng ở Sài
thành hoa lệ, thành công rạng rỡ về quê trong sự chào đón của khán thính giả như
Út Trà Ôn, hay biết đâu anh lầm đường lạc lối, bị hắt hủi giữa chừng, thất bại chốn
phồn hoa, đói khổ, một chiều dừng lại bên đường nhìn hạt bụi trong tia nắng xiên
khoai mà ngoái về quê cũ.
Nhưng quê cũ của anh đá nát vàng phai có đâu nữa mà ngoái lại?
Hay biết đâu vài mươi năm sau, hai cha con nơi đất khách lại làm hòa với nhau, ôm
nhau mừng tủi, bằng cách nào thì tôi không biết, nhưng thế nào cũng có cách, vì
cha mẹ và con cái, hay anh chị em trong nhà, giận nhau vì lối sống, cãi nhau vì
chính kiến, nhưng bỏ nhau hoài sao đặng. Phải không? Khi đó người cha biết đi tìm đâu người phụ nữ đã
đánh máy cho ông, khẩn khoản đòi xin lại một tờ giấy cũ vàng ố, lẳng lặng cho
vào ngọn lửa xanh lơ trong tiếng máy chữ rào rào chiều chạng vạng. Gần như vô
thức, tôi gập nhỏ nhiều lần tờ giấy đánh máy, nhét vội vào túi quần sau, cài cúc,
nhảy qua cửa sổ, vói tay khép cánh cửa mà đi.