Phố huyện An
Nhơn khi ấy ông chưa được trở về và ông cũng chưa hình dung
bao giờ ông được trở về. Kiếp sống xa quê cứ day dứt tâm khảm, làm ông ông
không mấy khi được thanh thản. Nó như không nói được thành lời trước bạn bè, mà
đôi khi chỉ thấy thốt lên trong thơ như một tiếng nấc. Tôi đã mấy lần được
chứng giám cảnh ông đang đọc thơ cho bạn nghe, bỗng ông quay mặt ra phía khác,
tay gạt dòng nước mắt. Tôi hiểu, đấy là khi thơ đã nói thay ông được rất nhiều
tâm trạng. Tập thơ “Những ngọn đèn”, xuất bản năm 1957, là tập thơ hay
của ông. Tuy nhiên, vì thời điểm tập thơ ra đời không được đúng lúc, nên ngay
thời đó ông bị phê bình là “tư tưởng tiểu tư sản”. Như để giã từ “tính giai
cấp”, ông đã tự chuyển hóa bằng cách lăn xả vào cuộc sống…
HỒN THƠ Ở BẾN MY LĂNG
VŨ
TỪ TRANG
Tôi có cơ
duyên thường được gặp gỡ ông vào những năm trước khi ông chuyển về sinh sống ở
quê Bình Định. Ngày ấy gia đình ông ở căn phòng tầng hai ngôi nhà cổ phố Hàng
Quạt. Còn tôi đương làm phóng viên cho một tờ báo ở phố Hàng Gai. Hễ khi rảnh
việc, tôi lại men theo ngõ nhỏ xuyên tắt từ phố Hàng Gai sang phố Hàng
Quạt để hầu chuyện ông. Nói là hầu
chuyện, nhưng thực ra có khi cả buổi ngồi lặng lẽ uống trà với ông. Ông vốn
không phải là người cao đàm khoát luận gì, tính ông ưa lặng lẽ. Hễ bốc lên, ông
nói một thôi một hồi rồi lại lặng thinh. Có khi ông lai rủ rỉ rù rì đọc thơ
khúc trầm khúc bổng. Con người ông không qúa vồ vập, nhưng lại không phải là
người lạnh nhạt. Ở ông luôn toát lên vẻ dễ gần, dễ thân thuộc. Ông là người cần
cù chịu khó. Hầu như chưa lần nào đến tôi thấy ông ngồi yên. Khi thì thấy ông
ngồi viết ngồi đọc, khi thấy ông xếp sắp
mấy tập vở đang viết dở, khi thấy ông đang khâu vá vật gì đó, khi thấy ông đang
say mê tưới tắm cho khóm hồng ngoài ban công. Cái ban công nho nhỏ mà hình như
đã hỏng cả tay vịn lan can, nhưng hoa hồng thì luôn nở rất đẹp. Tôi biết ông
yêu hoa hồng lắm. Loài hoa kiêu sa ấy ai chẳng mê, nhất là ông lại là thi sỹ,
chẳng thế mà năm 1968, ông có tập thơ với tên sách “Lẵng hoa hồng”.
Với tôi, thơ của ông là một thứ ma mị. Ngay
từ thưở thập thững vào nghiệp văn chương, tôi đã chép trong sổ tay nhiều bài
thơ của ông. Ngày đó thơ của ông không được phổ biến rộng. Nhưng những bài “Lại
về tỉnh nhỏ”, “Phù Ly”, nhất là bài “Bến My Lăng” thì ám ảnh tôi vô cùng. Tôi
hình dung cái bến sông với con đò âm âm u u, như trôi trong cô tịch,
Bến My
Lăng nằm không, thuyền đợi khách
Rượu
hết rồi, ông lái chẳng buông câu
Trăng
thì đầy rơi vàng trên mặt sách
Ông
lái buồn để gió lén mơn râu.
Tôi đã tự hỏi không biết nhà thơ là ông lão lái thuyền kia?
Hay là chàng kỵ mã áo ngọc lưu ly nhúng đầy trăng? Hay là ngọn gió đìu hiu tịch
mịch? Tôi biết đó là tâm trạng cô đơn vô cùng của ông giữa cảnh đời vừa thực
vừa rất nhiều chất liêu trai.
Mảnh đất Bình Định của ông vốn là đất võ, nhưng nó lại vô
cùng lãng mạn với sông Côn và biển Tam Quan xanh mát bóng dừa. Chính mảnh đất
thành Đồ Bàn đã nảy sinh ra nhóm tứ hữu, mà họ ngạo mạn, tự tin phong cho nhau
danh hiệu tứ linh: long-lân-quy-phượng. Đó là tứ kiệt trong văn chương nước
Việt: Hàn Mặc Tử-Yến Lan- Quách Tấn- Chế Lan viên. Theo ông kể, sinh thời nhóm
Bàn Thành Tứ Hữu này sống rất thân thiết và bình đẳng. Cái mà họ tôn thờ cao
nhất, ấy là thi ca. Thi ca là cõi đền đài cho họ gắn bó nhau và cùng soi vào đó
để vươn tới vẻ đẹp thánh thiện.
Nhà thơ Yến Lan còn
lưu giữ mãi ấn tượng cuộc gặp gỡ giữa ông và thi sĩ Hàn Mặc Tử. Ấy là buổi sáng
ngày chủ nhật giữa năm 1930, khi ông đang mải ngồi chép thơ mình mới sáng tác
vào cuốn sổ tay bên mái chùa Ông quê nhà, thì đúng lúc nhà thơ Hàn Mặc Tử đưa
nhà văn Nguyễn Công Hoan vào viếng cảnh chùa. Hàn thi sỹ nhìn thấy chàng trai
mải chép thơ và thế là họ thành bạn của nhau. Theo tuổi khai sinh, Hàn Mặc Tử
sinh năm 1912, Yến Lan sinh năm 1916, Chế Lan Viên sinh năm 1920 và Quách Tấn
sinh năm 1910. Tuy tuổi tác chênh lệch, vậy mà họ rất tri âm tri kỷ. Thi ca là
cây cầu nối họ khăng khít lại với nhau.
Sau buổi vào Quy Nhơn, tới ngôi nhà 20 Khải Định thăm thi sỹ họ Hàn, con người tinh thần của Yến Lan như thay
đổi hẳn. Những vần thơ bãng lãng, mà trau chuốt và lãng mạn của ông như hồi hộp
và quặn thắt hơn. Thưở ấy, nhóm Bàn Thành Tứ Hữu xuất hiện đã gây tiếng vang và làm nghiêng ngửa nhiều
nhóm thi ca đang nở rộ trong văn đàn ba miền Bắc Trung Nam. Đấy là
thời hưng thịnh của thi ca nước nhà. Vị
thế nhà thơ được đề cao hết mức. Đấy là thời mà ông Yến Lan cũng như các thành
viên trong Bàn Thành Thi Hữu say đắm tạo ra những vần thơ mới làm quyến rũ và
đắm say bao lòng người. Lòng say mê sáng tạo với ông như khó có độ nào hơn cái
thời đận ấy. Hễ ông và bạn bè viết được câu thơ, bài thơ nào mới là vội tìm
nhau đọc cho nhau cùng nghe. Lầu cửa Đông thành Bình Định ngày ấy là nơi chiều
chiều họ cùng đến để gặp gỡ nhau, đàm đạo văn chương. Bàn dân thiên hạ nom thấy
bốn chàng trai Bàn Thành Tứ Hữu là như thấy bốn cánh chim thi ca tung cánh bay
trong con mắt tự hào và thán phục của họ .
Thời trẻ, Yến Lan
trải qua nhiều nghề để kiếm sống. Nhưng có lẽ nghề gõ đầu trẻ là nghề bám đuổi
dai dẳng với ông hơn cả. Nghiệp dạy học
như cũng để ông gần với chữ nghĩa nhiều hơn. Ngoài dạy trẻ học chữ quốc ngữ,
thầy giáo tư thục Lâm Thanh Lang- tên thật của nhà thơ Yến Lan, thường đọc thơ
Đường, thơ Pháp cho lớp học trò nghe,
giảng giải, phân tích và đưa các em dần
tiếp cận vẻ đẹp sâu lắng của Đường thi và chất đắm say lãng mạn của thơ Pháp.
Năm hai mươi tuổi, ông cùng Chế Lan Viên ôm hòai bão xuất bản môt tờ báo riêng
lấy tên là tờ Tiếng Địch, hòng lấy đó làm nơi ngôn luận phát biểu, tuyên ngôn
quan niệm của mình về thi ca nghệ thuật. Tiếc là tờ Tiếng Địch mới phát hành
được một số, thì hai chàng thi sỹ hết tiền không in nổi báo số báo thứ hai nữa.
Tuy tờ báo bị chết yểu, nhưng đã đủ tạo tiếng vang trong văn đàn báo giới. Nó phản ánh ý chí,
khát khao của những con người luôn muốn tìm cái mới, không chấp nhận cuôc sống
buồn tẻ, nhàm chán của lớp trí thức trẻ thời bấy giờ.
Yến Lan là người
sớm nổi tiếng. Tập thơ đầu tay “Bến My Lăng” của ông tuy chưa được xuất bản,
thơ ông mới in rải rác trên các báo Phụ nữ, Tiểu thuyết thứ Năm, Nghệ thuật...
vậy mà khi Hoài Thanh- Hoài Chân soạn cuốn Thi nhân Việt Nam đã phải viết “Xem
thơ Yến Lan, tôi mơ màng như đi trong mây mù. Khi đầu thì cũng hay hay, nhưng
dần lâu cơ hồ ngạt thở. Chỉ thấy mờ mờ những con đường chảy, êm như những dòng
sông, và nhất là cái vừng trăng vẫn thường ám ảnh các nhà thơ Bình Định. Ngoài ra chịu không biết sau màn mây mù
ấy có gì không.” Bài viết vào tháng 10 năm 1941, ấy là khi nhà thơ mới có hai
mươi nhăm tuổi. Thơ của ông, cũng như thơ của các nhà thơ trong nhóm Bàn thành
tứ hữu sớm khẳng định giọng điệu, phong cách sáng tạo của phong trào Thơ Mới.
Nói đến thơ mới, là không thể không nói
đến thơYến Lan .
Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả
Sợ
trăng vàng rơi khuất lối chưa đi.
Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách
Để
thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách
Gọi
đò thôi run rẩy cả ngành trăng.
Cái gốc muôn đời của thơ, ấy là cảm xúc. Cảm xúc trong thơ
Yến Lan bao giờ cũng trào dâng và quặn thắt. Tuy nhiên nó lại như tinh sạch
quá, kỹ càng quá. Có người nói, đó là
thế mạnh trong thơ ông, và âu cũng là cái giới hạn trong thơ ông chăng?! Bài
“Nhớ”, trong tập “Bến My Lăng” và cũng được in trong tập “Thi nhân Việt Nam”
cũng có những câu thơ kỹ càng tới mức kỳ tài.
Tôi nhớ trên đường bao vảy lá
Mà
thu vàng rụng giữa ngày khô !
Những vảy lá và thu vàng rụng ngày khô, nghe như hơi hướng
thơ xưa. Nhìn chung, thơ Yến Lan cũng như thơ
Quách Tấn, có phảng phất hơi hướng của mùa cổ điển. Đó là sự ảnh hưởng
trong kết cấu và trong âm hưởng cảm xúc.Tuy nhiên, thơ ông đôi lúc lại có những
nét tung tẩy, buông bắt rất đáng yêu .
Tỉnh nhỏ
đìu hiu
mặt trời chiều
ngủ trên mái rạ
...
Tỉnh nhỏ
cô
em
nằm xem
kiếm hiệp
Nhưng phải ghi nhận những vần thơ ông viết về quê hương đã đạt
mức huyền ảo. “Trời Bình Định có thương em lẻ chiếc. Em nằm thương xanh biếc của trời buồn”. Những vần
thơ đắng đót mà như chỉ ở ông mới có. Phải chăng nó là cảnh ngộ riêng của ông?!
Bài thơ tứ tuyệt “Khi chị đi lấy chồng”
như xoáy vào tâm gan người đọc.
Khế chua chị nấu lá mồng tơi
Em ước cùng ăn đến trọn đời
Tang mẹ mãn rồi, bà mối giục
Chị đi- bát đũa cũng mồ côi.
Sinh thời, ông đã đọc đến mấy lần bài thơ này cho tôi được
nghe ở căn gác nhỏ 37 Hàng Quạt mà ông và gia đinh ông đang trú ngụ. Đấy là
thời bài thơ chưa được công bố, tình hình đất nước còn chia cắt. Phố huyện An
Nhơn khi ấy ông chưa được trở về và ông cũng chưa hình dung
bao giờ ông được trở về. Kiếp sống xa quê cứ day dứt tâm khảm, làm ông ông
không mấy khi được thanh thản. Nó như không nói được thành lời trước bạn bè, mà
đôi khi chỉ thấy thốt lên trong thơ như một tiếng nấc. Tôi đã mấy lần được
chứng giám cảnh ông đang đọc thơ cho bạn nghe, bỗng ông quay mặt ra phía khác,
tay gạt dòng nước mắt. Tôi hiểu, đấy là khi thơ đã nói thay ông được rất nhiều
tâm trạng.
Tập thơ “Những ngọn đèn”, xuất bản năm 1957, là tập thơ hay
của ông. Tuy nhiên, vì thời điểm tập thơ ra đời không được đúng lúc, nên ngay
thời đó ông bị phê bình là “tư tưởng tiểu tư sản”. Như để giã từ “tính giai
cấp”, ông đã tự chuyển hóa bằng cách lăn xả vào cuộc sống. Những ngả đường đất
nước, những vạt đồi nông trường, những cánh đồng hợp tác xã đã cuốn hút ông và
đem đến cho ông những cảm xúc tươi rói. Những bài “Bài thơ hợp tác thôn tôi”, “Theo
gió xuân lên biên giới”... là kết quả của những chuyến đi thực tế và lăn xả vào
cuộc sống của nhà thơ. Trong con người thi sỹ của ông, thì thái độ công dân của
ông luôn rõ ràng. Thời chiến tranh chống Mỹ, ông có những bài thơ hay về chiến
thắng Bình Giã, Vạn Tường. Ông là người có sở trường viết thơ tứ tuyệt. Phải
chăng thể loại thơ này nó hợp với những cảm xúc cô đọng, súc tích và có chút
hoài niệm?! Trong nhóm Bàn Thành Tứ Hữu, có hai nhà thơ cự phách của thể thơ tứ
tuyệt, ấy là Quách Tấn và Yến Lan. Sinh thời, nhà thơ Yến Lan rất phục tài thơ
tứ tuyêt của Quách Tấn. Tôi nhớ có lần được nhìn ông trịnh trọng cởi mấy lớp
giấy bóng kính để lấy ra tập thơ tứ tuyệt của bạn ông là Quách Tấn gửi tặng . Tôi không tiện hỏi là đường
dây nào đã chuyển ấn phẩm thơ in từ Sài Gòn ra tặng ông. Tôi lơ mơ hiểu rằng
tập thơ được chuyển đường vòng từ Sài Gòn sang Pa-ri và từ Pa-ri gửi về Hà Nội
và qua rất nhiều kiểm duyệt nhiêu khê. Tôi được đọc ngấu nghiến mấy chục bài
thơ tứ tuyệt và bái phục ông Quách Tấn. Cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ mang máng,
đó là những vần thơ thương nhớ quê hương và nỗi cảm khái của người không xu
thời mẫn thế.Tôi còn nhớ nhà thơ Yến Lan
vừa đọc vừa giải thích cho tôi nghe về một địa danh nào trong thơ, hoăc một vài
ngôn ngữ địa phương. Khi đó, có bài tôi chưa hiểu lắm, hoặc không hợp tâm trạng
mình; nhưng tôi thấy bài nào cũng toát lên lòng yêu nước, yêu dân tộc. Tôi còn
nhớ dáng vẻ vừa xuýt xoa nhớ bạn, phục thơ bạn; và động tác vừa phải dấu diếm
rất tội nghiệp của ông khi ấy. Bây giờ, thơ Quách Tấn đã được in ấn công khai
và đầy đủ. Tôi càng thấy tình yêu quê hương xứ sở tới mức xót xa của người thi
sỹ tiêu biểu của mùa cổ điển trong nhóm Bàn Thành Tứ Hữu dạo nào và càng thấy
tình bạn thủy chung khăng khít của họ.
Sau ngày đất nước
thống nhất, ông vội khăn gói cùng người vợ hiền đáp tầu hỏa về quê. Có người
hỏi: sao ông không vào Sài Gòn hay ra Đà Nẵng sinh sống cho thuận tiện? Ông
không trả lời, mà mấy ai hiểu tâm trạng của ông. Với ông, quê hương là nỗi niềm
canh cánh bao năm trời. Dòng sông, mảnh vườn, mái nhà và cái bến sông My Lăng
như vẫn âm âm u u trong tâm cảm của ông đã mấy chục năm trời . Đấy là bến sông
ảo vọng, nhưng nó như có đời sống thực sống cùng suốt cuộc đời ông. Tôi hình
dung ngày trở về cố hương của ông, sau phút hàn huyên với người thân sau bao
năm xa cách, hẳn ông lại đi tìm cái bến sông mơ hồ trong cảm xúc đó. Tôi không
hình dung nổi buổi hội ngộ giữa ông và nhà thơ Quách Tấn nó chan chứa cảm xúc
bao nhiêu?! Nhưng tôi chắc hẳn rằng hai ông sẽ dành cho nhau những giây phút
bình yên nhất, để đọc cho nhau nghe
những vần thơ gan ruột của mình; cùng nhớ lại thời trai trẻ tung hoành,
cùng ôn lại kỷ niệm một thưở của Bàn Thành Tứ Hữu như mới ngày nào, mà nay hai
mái đầu đã bạc.
Bình tĩnh
đọc laị một cách hệ thống những sáng tác của nhà thơ Yến Lan, thì thấy mảng thơ
đề tài quê hương luôn nặng trĩu trong tâm cảm ông. Đương nhiên, với bất kỳ nhà
thơ nào, thì quê hương vẫn là niềm thương nhớ, nhưng tôi thấy nỗi nhớ quê của
ông như luôn đầy, nặng. Không kể những tập thơ khác, riêng tập thơ tứ tuyệt của
ông đã có hơn trăm bài ông viết về quê hương và những người thân ở quê hương
ông.
Có thể dẫn
ra bất kỳ bài thơ nào cuả ông đều thâý nỗi niềm âý.
Khói quyện đầu
ô, nửa xóm nhòa
Tàu dừng đổ
khách, sắp rời ga
Đồng hương kẻ
xuống, người ra đón
Mình suốt đời
đi chửa tới nhà.
( Tàu ngang quê cũ )
Hoặc là :
Đò ngang gối
bãi, bóng trăng lồng
Chợ khuất
sương chiều mắt trẻ trông
Ta ước như em còn có mẹ
Dẫu cùng đăm
đắm một ven sông
( Chờ )
Bến My
Lăng, cái bến tưởng tượng trong tâm trí của ông, sau hơn ba mươi năm xa cách,
nay gặp lại:
Thăm quê về
lại bến trăng xưa
Còn tưởng đêm
nay đứng gọi đò
Chưa kịp nhớ
ra lòng có hẹn
Chèo ai cập
bến đã vang khua.
( Qua bến My Lăng )
Tâm hồn
ông vốn đan chéo tâm sự. Ông thèm khát về quê, vậy mà khi ở quê rồi, ông lại
thao thức nhớ ngôi nhà ngoài Hà Nội một thời ông đã sống :
Nghe tràn gíó
bấc chuyển vào đông
Tìm hướng nhà
xưa rợp cúc, hồng
Đâu nỡ trách
quê tình giục gĩa
Chỉ lo con trẻ
bỏ hồng không.
( Nhớ hoa hồng nhà 37 Hàng Quạt )
Cái tâm trạng vừa bãng lãng vừa
quặn thắt, vừa trào dâng vừa lắng đọng, nó như đi xuyên suốt chặng đường sáng
tạo thi ca của ông, tạo ra phong cách thơ riêng của ông.
Ông có
một gia đình yên ả. Tình cảm vợ chồng tao khang, tôi như nhận rõ được ở gia
đình ông. Những ngày gia đình ông còn ở Hà Nội, hễ đến bất kỳ khi nào, tôi đều
nhận cảm được điều đó. Bà Lan, người vợ hiền thục của ông không phải người Huế,
vậy mà tôi luôn ngỡ bà là người Huế. Phải chăng phong cách sống của bà luôn gợi
cho tôi liên tưởng đó. Bóng dáng người vợ dịu dàng, khuôn phép như thường
thoáng hiện trong thơ ông. Bạn bè ông vẫn kể giai thoaị thời trai trẻ có hai người
con gái mà ông hết mực qúy mến, đấy là cô Yến và cô Lan. Ấy rồi cô Lan thành vợ
ông và ông đã lấy tên hai người con gái từng ảnh hưởng tới đời sống tinh thần
của ông ghép thành tên bút danh Yến Lan. Thửơ ông sinh thời, tôi đã mấy lần
định hỏi xác minh lại điều này, vậy mà tôi không dám, vì thấy giai thoại có gì
cao đẹp qúa. Những năm tháng cuối đời ông ốm đau liên miên. Trong ngôi nghà nhỏ
ở ven chợ An Nhơn, người ta thường thấy cảnh bà bưng bát thuốc mời ông uống cho
giảm bệnh, một tay bà cầm quạt giấy phe phẩy cho ông qua cơn nóng bức. Đã vậy,
bà còn là người thư ký riêng, cặm cụi chép những vần thơ ông vừa sáng tác.
Tuyển tập thơ tứ tuyệt của ông vừa được Nhà xuất bản Văn Học cho ấn hành tháng
9 năm 2006, là do công sức lớn của bà Lan. Đọc tập thơ gần năm trăm bài thơ tứ
tuyệt của ông, tôi phục sức làm việc của ông một phần, một phần phục công chăm
sóc của bà để tập thơ ra đời. Tôi hình dung cảnh bà ngồi lặng lẽ chép thơ của
ông và cảnh bà đi gõ cửa Nhà xuất bản xin giấy phép và bà gom góp số tiền lương
hưu ít ỏi của mình để in tập thơ cho ông, tôi ứa nước mắt cảm động. Hỏi đời nhà
thơ có hạnh phúc nào hơn với nghĩa cử của người vợ lo cho tác phẩm của mình như thế?!
Mùa hè
2006, có dịp vào Sài Gòn, tôi cố tìm đến
căn nhà Lâm Huy Nhuận ở cuối đường Bình Quới, hòng kiếm tìm thêm chút tư liệu
về nhà thơ của bến My Lăng. Lâm Huy Nhuận- con trai của thi sỹ Yến Lan, anh là
nhà thơ trưởng thành thời chống Mỹ, với tính khí sôi động ồn ã, khác hẳn tính
nho nhã của cha. Lâm Huy Nhuận có thể uống rượu đọc thơ ào ạt trước đám đông;
nhưng khi nhắc đến người cha thi sỹ của mình, bỗng anh trầm giọng lại. Anh nói
cha anh cho anh ý chí làm người và dạy anh làm nghệ thuật phải bằng tấm lòng
yêu thương đích thực.Tôi nhớ một thời nhà thơ Hoài Anh, nhà thơ Võ Văn Trực
thường kể chuyện rằng rất tự hào từng là học trò yêu của nhà thơ Yến Lan. Sinh
thời, ông luôn nhiệt tình kèm cặp các nhà thơ trẻ. Ông thường tâm sự, muốn làm
nhà thơ, trước tiên hãy làm con người tốt. Và với thơ , điều tối kỵ là viết
dối, viết cẩu thả. Với tôi, nỗi nhớ ông thường âm thầm và tự nhiên. Trên đường
đi đâu đó, hễ chợt gặp một phố huyện nhỏ bé nào, tôi lại tự nhiên liên tưởng và
bất thần nhẩm đọc vần thơ “ Tỉnh nhỏ đìu hiu...” của ông mà tôi thuộc tự khi
nào. Khi ấy, tôi như thấy giải tỏa được
rất nhiều tâm trạng của mình.