Lần đầu tiên gặp nhau ở sân bay Lộc Ninh, Đỗ Nam Cao đã bị
cô tù nhân Trần Thu Hồng hút mất hồn! Hình
như đòn roi hà khắc của nhà tù không đủ
sức làm thui chột tuổi xuân của cô gái xứ Quảng! Khuôn mặt tròn trịa, đôi mắt đen láy dưới cặp
lông mày nét ngang và mái tóc xanh mượt,
Trần Thu Hồng toát lên vẻ đẹp hồn nhiên và
trong sáng. Đỗ Nam Cao viết những bài báo về những năm tháng chiến đấu ở
chiến trường cũng như trong lao tù của Trần Thu Hồng và làm thơ tặng cô. Tình
yêu của họ bắt đầu từ đó. Khi Trần Thu Hồng
ra Bắc an dưỡng và học văn hóa, từ chiến trường miền Nam, Đỗ Nam Cao tìm mọi cách gửi áo ấm và những lá thư động viên an ủi người yêu.
TRÁI TIM ẤM ÁP VƯỢT
QUA GIÔNG BÃO CUỘC ĐỜI
MINH DIỆN
Năm
1992, tôi viết bài báo “Chuyện làng Lòi”, kể về thân phận những nữ Thanh niên xung phong trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ ở quê tôi. Đó là những người hiến trọn tuổi thanh xuân cho Tổ quốc, hòa
bình về quê, bị lỡ dở, đành kiếm một đứa
con an phận. Nhưng các chị bị dư
luận xã hội dị nghị, nên phải rủ nhau nhau ra bãi bồi ven sông lập một cái làng nhỏ, lam lũ làm ăn, đùm bọc
lấy nhau sống quãng đời còn lại. Một tuần sau khi đăng bài báo ấy, Trần Thu Hồng, một cán bộ ở Công
ty lương thực TPHCM tới gặp tôi, trao tận tay 5.000.000 đồng. Thu Hồng nói: “Đọc bài báo của anh, em thương các chị làng Lòi quá. Đây là tiền
riêng của em gửi tặng các chị. Anh trao
cho các chị giúp em và cho em gửi lời thăm các chị!”. Tôi nói sẽ đăng tin Trần Thu
Hồng gửi tiền cho chị em làng Lòi trên báo Tiền Phong, Trần Thu Hồng lắc đầu:
“Đừng, việc em làm thấm gì với các chị ấy!”.
Bấy giờ,
năm triệu đồng rất lớn, và đối với các cựu thanh niên xung phong làng Lòi đang
hết sức khó khăn, thì tình cảm và vật chất mà Trần Thu Hồng dành cho họ không
gì sánh được. Vì vậy khi vào miền Nam công tác, Anh hùng quân đội Trịnh
Tố Tâm, Bí thư trung ương Đoàn, đã bảo
tôi đưa tới gặp Trần Thu Hồng, để anh thay mặt chị em cựu thanh niên xung phong
trực tiếp cảm ơn chị. Tôi quen thân Trần Thu Hồng và chồng chị- nhà thơ Đỗ Nam
Cao từ đó.
Trần Thu
Hồng sinh ra và lớn lên ở huyện Điện Bàn - Quảng Nam, gọi Trần Thị Lý (người con gái mà nhà thơ Tố Hữu đã ca ngợi: “Điện giật dùi đâm
dao cắt lửa nung. Không giết được em người con gái anh hùng”) bằng cô ruột. Năm
mười tuổi Thu Hồng theo các chú các anh
hoạt động cách mạng. Năm 1968, mới mười ba tuổi, Trần Thu Hồng bị chính quyền
Việt Nam Cộng Hòa bắt giam ở nhà tù Non
Nước- Đà Nẵng sau đó đưa ra nhà tù Phú Quốc. Năm 1973, Trần Thu Hồng được trao trả ở sân bay Lộc
Ninh.
Trong số
nhà báo đi đón tù nhân ngày ấy có một
phóng viên trẻ tên là Đỗ Cao Sơn, bút danh Đỗ Nam Cao. Sinh ra và lớn lên ở làng Liên Hòa
huyện Phú Xuyên- Hà Nội, Đỗ Nam Cao tốt nghiệp khóa 12, khoa ngữ văn Đại học tổng
hợp Hà Nội, cùng khóa với Phạm Quang Nghị, Trần Thị Thắng, Lê Quang Trang… Sau
đó Đỗ Nam Cao học Trường viết văn Quảng Bá của Hội nhà văn Việt Nam, cùng những
cây bút tài năng như Bế Kiến Quốc, Vũ Ân
Thi, Nguyễn Thị Hồng.... Năm 1971, Đỗ
Nam Cao vào chiến trường miền Đông Nam bộ, trực tiếp cầm súng và cấm
bút trên các vùng đất nóng bỏng lửa khói Củ Chi, Bến Cát, Dầu Tiếng...
Trần Thị Hồng tại buổi gặp mặt kỷ niệm 1 năm ngày mất Đỗ Nam Cao!
Lần đầu tiên gặp nhau ở sân bay Lộc Ninh, Đỗ
Nam Cao đã bị cô tù nhân Trần Thu Hồng
hút mất hồn! Hình như đòn roi hà khắc của nhà tù không đủ sức làm thui chột tuổi xuân của cô
gái xứ Quảng! Khuôn mặt tròn trịa, đôi mắt
đen láy dưới cặp lông mày nét ngang và
mái tóc xanh mượt, Trần Thu Hồng toát lên vẻ đẹp hồn nhiên và trong sáng .
Đỗ Nam Cao viết những bài báo về những năm
tháng chiến đấu ở chiến trường cũng như trong lao tù của Trần Thu Hồng và làm
thơ tặng cô. Tình yêu của họ bắt đầu từ đó. Khi Trần Thu Hồng ra Bắc an dưỡng và học văn
hóa, từ chiến trường miền Nam, Đỗ Nam Cao tìm mọi cách gửi áo ấm và những lá thư động viên an ủi người yêu.
Ngày Sài Gòn giải phóng họ gặp lại nhau,và lễ cưới được tổ chức trong niềm vui chung cùa gia
đình, bạn bè. Niềm vui được nhân lên, khi
tập thơ đầu tay “Những cánh cò lửa” của Đỗ Nam Cao ra mắt bạn đọc và sau đó cô con gái đầu lòng của anh chào đời.
Ai cũng nghĩ những cánh cò sẽ mãi mãi bay lượn
trên cánh võng đứa con gái xinh đẹp, và ngọn lửa tình yêu sẽ ấm mãi gia đình nhà thơ Đỗ Nam Cao, không ngờ bi kịch đã giáng xuống đầu họ. Đang làm cán bộ
tổ chức ở Quận ủy quận 1, Trần Thu Hồng được điều về Công ty lương thực TPHCM,
do bà Nguyễn Thị Ráo- Ba Thi làm giám đốc. Ngày ấy tên tuổi Ba Thi nổi tiếng khắp
ba miền. Bà từng “vác rá đi xin” từng lon gạo, cân thịt cho thành phố thời bao
cấp. Bà là một người liêm khiết, hết
lòng vì dân, xốc vác dám nghĩ dám làm, được lãnh đạo các cấp
hết sức tin tưởng, nhưng bà quá tự tin đến
mức đôi khi hơi duy ý chí. Bà phóng tay mở ra nhiều dự án ngoài khả năng quản
lý của mình, để cho những kẻ cơ hội lợi dụng...
Là một cán bộ năng nổ, Trần Thu Hồng trở
thành cánh tay đắc lực của Ba Thi, trực tiếp tham gia các dự án phát triển như một cơn lốc của nữ giám đốc lẫy
lừng dạo ấy. Những khách sạn, nhà hàng, khu du lịch, khu công nghiệp mọc lên. Các
liên doanh, liên kết mở rộng từ Nam
ra Bắc. Chỗ nào cũng có bóng dáng Trần Thu Hồng, xông xáo như con thoi, thực hiện những nhiệm vụ được giao. Người yêu nhiều, kẻ ghen ghét cũng lắm. Người ta ai cũng muốn
nhiều hơn cái họ cần! Trần Thu Hồng rơi vào vũng xoáy quyền lực, tiền bạc và đố
kỵ lúc nào không hay.
Công ty lương thực TPHCM lao xuống vực, thua lỗ
do đều tư tràn lan. Tất cả tội lỗi đổ lên đầu “cái con Hồng” dù không phát hiện
Trấn Thu Hồng tham nhũng đồng nào. Trần Thu Hồng phải trả giá thay cho cách nghĩ, cách
làm vội vã của cấp trên. Cô bị bắt và bị tuyên án tử hình, rồi giảm xuống tù chung
thân.
Đó là
những ngày kinh khủng nhất của Trần Thu Hồng. Cô tuyệt vọng, có lúc hoảng loạn như bị tâm thần.
Mới trước đó báo đài hết lời ca ngợi, bạn bè không đếm hết, có những người nhận
chị, nhận em săn đón ân cần hơn ruột thịt. Tình hình thoắt đảo ngược, nhiều tờ
báo quay ngoắt lại xỉa xói, moi móc. Và
những người anh, người em ân cần ngày
nào cũng tránh xa, chỉ còn lại một vài
người bạn chưa hề lợi dụng cô, và người chồng
có thời kỳ ly thân, vẫn ở bên cạnh chăm sóc sức khỏe, an ủi tinh thần và gỡ oan trái giúp cô.
Một lần vợ chồng
tôi tới thăm Trần Thu Hồng trong phòng giam. Nhìn cô tiều tụy, vợ tôi không cầm
được nước mắt. Trần Thu Hồng khóc nói với chúng tôi: “Em thương anh Cao quá anh
chị ơi! Anh ấy khổ vì em. Em đã có lỗi với anh ấy!”. Qủa thật hiếm có người chồng nào giàu lòng vị tha và
cao thượng như Đỗ Nam Cao. Anh quên hết
chuyện cũ, bỏ ngoài tai mọi lời ong tiếng ve, dồn hết tình cảm và lý trí chăm
sóc và minh oan cho vợ. Hết ngày này đến
ngày khác, hết tháng này đến tháng khác,
đằng đẵng suốt mười năm trời, người đàn
ông có vóc dáng lênh khênh, mái tóc xòa ôm
lấy khuôn mặt thi sỹ ấy, không ngơi nghỉ một ngày nào. Anh vừa làm việc kiếm đồng
lương nuôi con, vừa đi gõ khắp các cửa kêu cứu cho vợ. Luât sư Phan Trung Hoài
đã phải thốt lên: “Tôi không ngờ anh Đỗ Nam Cao sắt đá đến thế. Anh không chịu
lùi bước trước bất kỳ trở lực nào!”
Trong những tháng ngày ấy có hai “người bạn”
gắn bó với Đỗ Nam Cao như bóng với hình , là rượu và thơ. Rượu giúp anh khuây khỏa, thơ giúp tâm hồn anh bình lặng, không chao đảo,
không quắt quay! Bên chén rượu khuya, Đỗ Nam Cao viết những câu thơ trên vỏ bao thuốc lá: “Cái thời thiếu vắng hơi
ấm lửa/ Ta ngờ ta sống nửa tâm hồn/ Ta ngờ luôn nửa hồn ta còn lại!” và “Những
chiếc lá bàng rơi màu đỏ thắm/ Anh cầm mà không thể buông ra”
Sau mười năm, nỗi oan ức được làm sáng tỏ, Trần Thu Hồng được
trả lại những quyền lợi chính đáng. Cái quý giá nhất đối với Trần Thu Hồng khi
được trả tự do không phải là của cải vật chất, mà là tình yêu người chồng Đỗ Nam Cao đã dành cho chị. Nhà
báo, nhà thơ chiến sỹ ấy đã với trái tim bền bỉ, đã vắt kiệt sức mình để giữ ngọn
lửa tình yêu mà anh thắp lên giữa sóng gió cuộc đời.
Nhà báo
nhà thơ Đỗ Nam Cao bị bệnh ung thư gan, có lẽ do anh uống nhiều rượu trong những
năm tháng đau buồn. Anh đã ra đi vĩnh viễn vào ngày 8-11-2011 , nhưng ngọn lửa
tình yêu của anh vẫn cháy: “Làng ơi! Cúi lạy Thành Hoàng. Cho con được phép khẽ
khàng thăm quê. Ngõ quen trâu dẫn lối về. Vườn xưa mất dấu trăng thề vườn
xưa...” và “Tôi ôm con ghì Trường Sa vào ngực. Bãi đá ngầm cào rách thịt da tôi”!
Mọi thứ đều tàn lụi, nhưng tình yêu thì không. Đỗ Nam Cao đã giành trọn vẹn
tình yêu cho vợ con và quê hương xứ sở , và vì thế, tuy không phải là một người
nổi tiếng, anh vẫn được trân trọng và sống
trong tim bè bạn và mọi người!