Công trình mà chúng tôi nói ở đầu bài, tức cái gọi là “Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn” thuộc chuyên ngành văn học Việt Nam của Đỗ Thị Thoan gồm 116 trang vi tính khổ A4, hoàn thành tháng 11-2010 tại cơ sở đào tạo Sau Đại học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, sau đó ít lâu được phép đưa ra bảo vệ và đã “bảo vệ thành công” trước Hội đồng chấm luận văn do Trường Đại học Sư phạm Hà Nội ra quyết định thành lập. Thời gian cứ trôi qua, nhưng suốt gần 2 tháng nay, kể từ khi trên diễn đàn Hội thảo khoa học “Nâng cao chất lượng và hiệu quả của lý luận, phê bình” do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức vào các ngày 4 và 5-6-2013 tại thị trấn Tam Đảo (Vĩnh Phúc) khởi đầu đã có vài ba tiếng nói cảnh báo, phê phán hiện tượng ngụy khoa học này, thì đồng thời, liên tục trên các mặt báo chuyên ngành, báo hằng ngày như Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, Nhân Dân, Quân đội nhân dân, Thanh tra, Vănvn.net (của Hội Nhà văn Việt Nam), Văn nghệ… đã có những bài viết, cụm bài viết nghiêm khắc đối thoại, phân tích chỉ ra những sai trái, lệch lạc của Luận văn này (cùng 5 tiểu luận - phê bình thuộc dự án nghiên cứu, hoàn thành đầu năm 2012 mang tên Những tiếng nói ngầm ký tên Nhã Thuyên - bút danh khác của Đỗ Thị Thoan - mà nội dung của nó là sự thoát thai, kéo dài và tiếp tục phát triển những quan điểm, tư tưởng của cùng một tác giả khai mở từ công trình Luận văn).
Trong hội thảo nói trên của Hội Nhà văn Việt Nam, chúng tôi đã có ý kiến rằng: “Trong cái mớ xô bồ lý thuyết từ Âu - Mỹ dội vào, ảnh hưởng vào nước ta, thì điểm nào, phương diện nào ta có thể tiếp nhận được, phù hợp để vận dụng soi vào thực tiễn văn học nghệ thuật nước ta, thuận với mặt bằng và sở trường tư duy sáng tạo, tiếp nhận ở ta.
Nếu không sẽ bị lôi cuốn, mất đi sự tỉnh táo cần thiết, vồ vập xưng tụng chúng một cách thái quá, nóng vội vận dụng nó vào nghiên cứu phê bình, ắt sẽ không tránh khỏi sự khiên cưỡng, áp đặt, thiếu hiệu quả - nếu không muốn nói là rơi vào thói học đòi, theo đuôi người nước ngoài rồi tự đắc lấy làm sang (!)”(1).
Vì vậy, chúng tôi rất hoan nghênh và đồng tình với những tiếng nói thiện chí, có trách nhiệm, cảnh báo về sự nguy hiểm của công trình mang danh nghiên cứu khoa học được Hội đồng chấm Luận văn ngộ nhận đánh giá đạt xuất sắc, ở chỗ nó “nhân danh nghiên cứu để ca ngợi thứ thơ rác rưởi”, thực chất là “một luận văn sai lạc”, thể hiện “một góc nhìn phản văn hóa và phi chính trị”. Những luận điểm nền tảng mà tác giả Luận văn dựa vào là sự góp nhặt tùy tiện, hiểu thiếu chính xác và chưa được nghiên cứu tường minh, thấu đáo các lý thuyết triết học, mỹ học của chủ nghĩa hậu hiện đại và các luận thuyết thời thượng khác (như lý thuyết Trung tâm - Ngoại vi, phạm trù Cái bên lề, Cái khác, Sự giễu nhại và Mỹ học của cái tục, Samizdat - tức xuất bản và phát hành văn chương bí mật, không chính thức…) để soi chiếu vào những ấn phẩm gọi là thơ của nhóm Mở miệng vốn dĩ được xuất bản chui, lưu hành ngầm ở ta và ở nước ngoài từ đầu thế kỷ XXI, một cách không đàng hoàng nhằm “kích động sự phản kháng và chống đối” tư tưởng chính thống và thể chế chính trị hiện hành, cùng sự nghiệp đổi mới mà cả xã hội ta dày công vun đắp ngót 30 năm nay được những người có lương tri trên thế giới xem trọng.
Các bài báo nói trên cũng tách bạch rõ đâu là sai trái, lệch lạc, có dấu hiệu nguy hiểm cần phải dè chừng và biết dừng lại đối với tác giả Luận văn và tập tiểu luận; đâu là trách nhiệm liên đới của cơ sở đào tạo Sau Đại học là Trường Đại học Sư phạm Hà Nội với Khoa Ngữ văn, nhà giáo hướng dẫn Luận văn, các nhà khoa học được mời vào Hội đồng chấm Luận văn đã không chút đắn đo thông qua và đánh giá cao “thành công” của Luận văn. Người ta không thể không đặt câu hỏi: Tại sao ở một trung tâm giáo dục và đào tạo đầu ngành sư phạm ở giữa Thủ đô mà trong suốt quá trình đào tạo một học viên cao học từ lúc đăng ký lựa chọn đề tài, thông qua tên đề tài và cái khung đề cương thực hiện, phân công người hướng dẫn khoa học khi học viên viết Luận văn, rồi cho phép Luận văn được bảo vệ để nhận một sự đánh giá tối ưu của Hội đồng chấm luận văn… - một quy trình đòi hỏi sự chặt chẽ, nghiêm túc về khoa học, sự kiểm tra giám sát của các cơ quan chuyên môn hữu quan và cán bộ phụ trách quản lý, hóa ra lại lỏng lẻo, dễ dãi và nể nang, châm chước nhau, gây nhiều sơ hở, bất cập đáng trách. Điều đó khiến cho một công trình ngụy khoa học của Đỗ Thị Thoan chứa đựng đầy rẫy những sai trái, lệch lạc về quan điểm tư tưởng học thuật và lộn xộn trong phương pháp nghiên cứu, lại lọt lưới, lẳng lặng vận hành đến đích suôn sẻ như vậy, đến mức tác giả của nó, ảo tưởng về sự cực đoan, thái quá, không chút e dè, cứ tiếp tục điềm nhiên truyền bá quan điểm, tư tưởng học thuật dị biệt và lạc lõng của mình trên diễn đàn mạng internet, trong dự kiến hoạt động thực tập hợp đồng giảng dạy tại nhà trường.
May thay, sự kiện hy hữu này đã bị phanh phui, phơi ra ánh sáng, khiến dư luận rộng rãi và giới học đường không khỏi giật mình, sửng sốt!
Thực ra, như người đời từ lâu đã nhắc nhở: có khi ngay ở dưới chân đèn cũng có thể có những khoảng tối và thời điểm tối; ngay ở trong một cơ thể vốn dĩ khỏe mạnh vẫn có thể có những điểm yếu chết người gọi là “gót chân Asin”!
*
* *
Là người chuyên nghiên cứu về lý luận văn học và văn học Việt Nam hiện đại từ nhiều năm nay, đã và đang tham gia vào công tác đào tạo tiến sĩ và thạc sĩ ngành ngữ văn tại một số cơ sở đào tạo Sau Đại học trong cả nước từ hơn hai mươi năm gần đây (giảng dạy, hướng dẫn hoặc chấm luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ thuộc hai chuyên ngành nói trên), tôi xin phép được đề xuất một vài ý kiến để các cơ quan hữu quan và cá nhân nhà khoa học ngữ văn lưu ý tham khảo, xem xét như sau:
1. Triển khai nghiên cứu các vấn đề của khoa học xã hội và nhân văn ở ta cần khảo sát kỹ lưỡng và thận trọng, tỉnh táo, bởi đây là lĩnh vực khoa học liên quan đến hệ tư tưởng, thể chế chính trị và thực tiễn lịch sử, đời sống xã hội đương đại. Những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy và đào tạo trên lĩnh vực khoa học này cần lựa chọn một chỗ đứng và lập trường khoa học đúng đắn, vững vàng, kiên trì hướng về lợi ích của nhân dân đông đảo, của dân tộc và đất nước, không thể vì bất cứ lý do gì để bị chi phối bởi lợi ích nhóm đối lập, làm phương hại đến sự ổn định và trật tự xã hội hiện hành, gây mất đoàn kết, phân tâm chia rẽ trong khối cộng đồng, khiến kẻ xấu, kẻ thù có thể lợi dụng.
2. Việc lựa chọn đối tượng nghiên cứu cùng với các dữ kiện nghiên cứu phải đáng tin cậy và hợp hiến cùng với đó là phương pháp nghiên cứu khoa học, phù hợp, có sức thuyết phục, là rất quan trọng.
Theo tôi, sự lựa chọn của tác giả Đỗ Thị Thoan/Nhã Thuyên nhằm đối tượng nghiên cứu - thơ của nhóm Mở miệng, là một việc làm khiên cưỡng, có ý đồ biện minh cho sự tồn tại của nhóm với những sản phẩm mà chính họ tự nhận gọi đó là “thơ dơ”, “thơ rác”, “thơ nghĩa địa” nhằm tôn vinh sự lệch chuẩn, chống đối lại thể chế và trật tự xã hội, bêu riếu những điều cao cả, thiêng liêng đối với toàn dân tộc.
Toàn bộ Phụ lục của Luận văn gồm danh mục các tác phẩm của Mở miệng cho thấy đây là những ấn phẩm của những người đứng ở phía bên lề đối lập với lợi ích của toàn xã hội. Cái gọi là tác phẩm của họ không dám xuất hiện một cách đàng hoàng, phải lén lút tự ấn hành, photocopy, tự xuất bản theo kiểu đối phó với sự kiểm duyệt của Nhà nước, gọi là kiểu xuất bản Samizdat (tr.108 - tr.110).
Đối tượng nghiên cứu như vậy rõ ràng là không đáp ứng các yêu cầu về phẩm chất và giá trị văn chương đích thực, không được thừa nhận hợp pháp và hợp hiến.
Từ đó, ta hiểu được vì sao việc nghiên cứu trước đó về nhóm này đã không bàn được về giá trị văn chương của cái gọi là thơ bộc phát từ nhóm Mở miệng, mà chỉ có thể đề cập đến những khía cạnh tác động xã hội của chúng (phê phán đó là “một nhánh kênh đen”, “thứ rác rưởi gọi là thơ” - như các bài đăng trên Báo Công an TP Hồ Chí Minh năm 2005, 2006; hoặc ngược lại ca ngợi đó là “một dòng thơ mới có tính cách tân”, “một cuộc cách mạng thầm lặng trong văn học”, với “những kiệt tác của tự do” - như đa phần bài viết trên mạng talawas; tienve.org; damau.org đã thổi phồng!).
Tình hình nghiên cứu như vậy đã gây không ít trở ngại cho tác giả khi viết mục “Lịch sử vấn đề” ở chỗ: trong số 34 đơn vị Thư mục được tác giả kể ra trong Thư mục nghiên cứu, thì có đến 20 thư mục lấy từ các trang mạng trôi nổi như trên đã nói, 5 đơn vị thư mục khác là các tài liệu do cá nhân bạn bè quen biết cung cấp riêng cho tác giả. Chỉ còn 9 đơn vị thư mục gồm các bài viết, sách dịch, sách nghiên cứu đã xuất bản chính ngạch hoặc Luận văn, Luận án đã bảo vệ về thơ Việt Nam đương đại là có thể kiểm chứng khi tác giả Luận văn trích dẫn. Song đáng tiếc những thư mục này lại được Đỗ Thị Thoan đánh giá thấp, cho rằng đó là “những bài báo vô nghĩa”, những luận văn, luận án “dè dặt trong tiếp cận và đánh giá” hoặc chí ít “mang tính chất điểm danh, nói theo, chỉ làm phong phú thêm những màu sắc của bức tranh giả mạo về thơ Việt Nam đương đại”.
Duy nhất có Luận văn của Trần Ngọc Hiếu cũng được bảo vệ trước đó tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và các bài viết của cây bút này được Đỗ Thị Thoan đánh giá cao, rằng ở đó có “sự sâu sắc về tư duy”, có “tầm nhìn rộng ra sự khiêu khích và bản chất khiêu khích của những kẻ nổi loạn”, từ đó “đặt ra nhiều vấn đề có tính lý thuyết và cách thức tiếp cận thơ ca đương đại mà Mở miệng là một hiện tượng tiêu biểu”.
Tác giả Đỗ Thị Thoan đã tỏ ra thiên lệch khi viết Lịch sử vấn đề, nghiêng về khai thác những đánh giá về Mở miệng đã đăng trên mạng vì đó là của những người “cùng hội cùng thuyền” - những kẻ bên lề như Mở miệng. Họ hoang tưởng rằng những cái gọi là thơ đó có khả năng “gây hấn” mạnh mẽ… “tạo thành một vùng năng động mà những nhà văn học sử và những người nghiên cứu văn hóa có thể coi là một nguồn dữ liệu quan trọng để thấy được tinh thần văn chương của một thời kỳ.” (tr.13)
Trình bày về đối tượng và lịch sử vấn đề nghiên cứu như vậy, theo tôi, khó có thể bảo đảm sự tin cậy, khách quan, khoa học, khó có thể kiểm chứng được!
Luận văn đã thiếu khách quan, công bằng khi thiên về bình tán những ý kiến lạc lõng khen thơ của nhóm Mở miệng (mà người ta biết rằng chúng được xuất phát từ những động cơ khác nhau, khó có thể nói về sự lành mạnh của văn hóa đọc). Về phía người viết, thì tác giả đặc biệt cổ xúy cho Mở miệng, cho rằng thơ của họ không dừng lại ở văn bản, mà tất yếu dẫn đến hành động. Nói cách khác đó là “hành động thơ” để can dự vào việc chống sự trung tâm hóa, chống lại sự ổn định xã hội và điều hành của Nhà nước, chống đối bằng đòi hỏi sự lên ngôi của cái bên lề, của cái khác, những dòng ngầm của tư tưởng cùng là sự thừa nhận xuất bản chui, không chịu dễ bề để Nhà nước kiểm soát. Tóm lại là hòa cả làng, tôi cũng như anh, mọi sự bình đẳng, ngang bằng tuyệt đối một cách vô chính phủ (!).
Thử hỏi, viết “Lịch sử nghiên cứu vấn đề” của Luận văn với thiên kiến và mục đích chính trị đối lập, phản kháng đồng lõa với Mở miệng như vậy, thì đó có phải là khoa học và trung thực hay không?
3. Chính vì chọn lầm hay do sơ sảy lấy đối tượng nghiên cứu của Luận văn chuyên ngành Văn học Việt Nam nhằm vào loại thơ xuất bản chui, lén lút, không chính ngạch của nhóm Mở miệng và khi viết “Lịch sử vấn đề” chủ yếu dựa vào những ý kiến bức xúc một chiều xuất hiện trên các thông tin mạng trôi nổi thuộc diện ngoài luồng chính thống, thiên về xu hướng đối lập với chính thể Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nên tác giả Luận văn đã buộc phải né tránh, không viết các mục Lời cam đoan ở đầu Luận văn, tiểu mục xác định “Mục đích nghiên cứu và Những đóng góp mới của Luận văn” mà theo Quy định về thể thức trình bày và bố cục Luận văn cần thiết, bắt buộc phải có ở phần Mở đầu. Bởi, thật là quá khó và không có sức thuyết phục, nếu tác giả khẳng định bảo đảm về tính trung thực, hợp hiến và đáng tin cậy của nguồn dữ liệu nghiên cứu, khai thác từ cái mớ lộn xộn kiểu đồng nát, sắt vụn, tạp - phí - lù là thứ “thơ dơ, thơ rác, thơ nghĩa địa” xuất bản chui kia? Bởi, làm sao trình bày toát lên được mục đích cao đẹp, ý nghĩa văn hóa và nhân văn (dù nhan đề Luận văn có trương lên vế từ “nhìn từ góc độ văn hóa” đi nữa) của việc nghiên cứu trong một công trình khoa học về văn học, khi mà đối tượng nghiên cứu - oái oăm thay - lại là những sản phẩm phi văn chương, phản văn hóa, phản nhân văn, tha hóa, đội lốt văn chương nhằm thực hiện một ý đồ và tham vọng chính trị là công kích, nói xấu chế độ dân chủ hiện hành? Bởi, làm sao chỉ ra được những đóng góp mới của Luận văn hướng con người và văn chương vươn tới những mục tiêu cao cả của Chân - Thiện - Mỹ, khi Luận văn dường như chỉ là một tiếng nói a dua theo với Mở miệng và các thế lực bất mãn, ngầm chống đối chế độ (nhưng được tác giả Đỗ Thị Thoan khéo ẩn giấu dưới các mỹ từ là “chia sẻ và thúc đẩy để cùng tồn tại” nơi vị trí như bị bủa vây trong hộp đen của Mở miệng. Theo tác giả, họ đã bị đối xử bất công như một thứ “quái vật”, “một vật cấm”, trong khi thực chất họ thực hiện “tính cách tân và tính cách mạng trong tư tưởng và nghệ thuật” (tr.17) ở chỗ dám “chối bỏ quyết liệt”, “lên tiếng đòi phá nốt những thành trì kiên cố của sự chuyên chế, khi niềm tin vào chế độ và sự tự do đang có nguy cơ tan rã” (tr.104). Lúc đầu tôi không muốn làm khó cho những dòng này trong Luận văn, nhưng cuối cùng vẫn phải viện dẫn ra đây, để độc giả không còn chút mơ hồ về sự đội lốt, giả danh thơ ca để đạt mục đích chính trị của Mở miệng và kiểu cổ vũ, tán dương lập trường quá khích, “gây hấn” của nhóm này mà tác giả Luận văn muốn tiếp tục châm ngòi, giữ lửa?
Qua đây có thể thấy việc thiếu vắng trình bày những khoản mục bắt buộc đối với một Luận văn khoa học như trên đã nói, ít nhiều đã cho thấy ngọn ngành những khiếm khuyết, bất cập của Luận văn, chứ không thể “châm chước” như Hội đồng chấm Luận văn, xem đây là một Luận văn hoàn hảo đến mức không phải băn khoăn chấm điểm xếp vào hạng ưu (?).
4. Rút cục, cái gọi là Luận văn khoa học ấy đã bảo vệ “thành công sáng giá” cách đây hơn 2 năm và Hội đồng chấm Luận văn đã bỏ phiếu tán thành thông qua ở trình độ xuất sắc với điểm tuyệt đối để tác giả của nó được vinh danh với học vị Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam. Nhưng nay, khi có dịp nhìn lại một cách bình tĩnh theo các chuẩn mực khoa học, đã thấy Luận văn này ở một số phương diện bộc lộ sự đáng ngờ về mục đích nghiên cứu khoa học; có dấu hiệu lệch lạc về tư tưởng học thuật; giá trị khoa học và ý nghĩa văn hóa, nhân văn lại mỏng manh, vậy thì chúng ta phải ứng xử như thế nào?
Tôi thiết nghĩ, dù đây là trường hợp ít khi xảy ra, nhưng nếu Luận văn quả thật đó đây xuất hiện những dấu hiệu không thể xem thường, cho qua (ở đây, tuyệt nhiên không phải là cách nói đẩy sự việc quá lên mức nghiêm trọng, việc bé xé ra to) thì việc cần làm ngay là tiến hành phúc tra, thẩm định lại thực chất giá trị khoa học của Luận văn và kết quả đánh giá của Hội đồng chấm Luận văn do Trường Đại học Sư phạm Hà Nội được thừa ủy quyền của Bộ Giáo dục và Đào tạo, lập ra.
Cấp có thẩm quyền tiến hành phúc tra, thẩm định lại kết quả đào tạo đã rồi, cần phải là cấp trên - cơ quan chủ quản của Trường cũng là cơ quan quản lý cấp Nhà nước về đào tạo, tức Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nên chăng quý Bộ chủ quản nói trên, theo đúng Quy chế quản lý khoa học và đào tạo Sau Đại học do Nhà nước ban hành, cần thành lập một Hội đồng tư vấn khoa học chấm phúc tra Luận văn của Đỗ Thị Thoan, để có căn cứ, kết luận rõ ràng về các phương diện cần xem xét, đánh giá lại Luận văn, đặc biệt là chất lượng khoa học của nó. Ý kiến tư vấn của Hội đồng khoa học độc lập này sẽ được trình lên để lãnh đạo Bộ xem xét, quyết định: hoặc là vẫn bảo lưu kết quả điểm của Hội đồng chấm luận văn mà nhà trường đã báo cáo ngay sau khi học viên Đỗ Thị Thoan bảo vệ năm 2010, hay cần phải cân nhắc, xem xét lại sự đánh giá “hơi bị hào phóng” của Hội đồng ngày trước, do không hoàn toàn phản ánh, nhìn nhận đúng giá trị thực chất của Luận văn?
Lúc này, cần quán triệt tinh thần, nếu việc nào làm đã đúng thì sẽ tiếp tục khẳng định, việc nào nhìn lại thấy là chưa đúng thì cần phải sửa chữa công khai trước công luận, ngõ hầu đảm bảo sự nghiêm túc, chuẩn mực, giữ gìn kỷ cương phép nước trong đào tạo cán bộ ở diện trình độ sau đại học.
Đối với những cán bộ khoa học quý là chuyên gia của ngành giữ vai trò liên đới trách nhiệm (người hướng dẫn, Hội đồng chấm luận văn, cơ quan quản lý khoa học và đào tạo của trường) cũng cần được nhìn nhận thấu đáo, có lý, có tình. Là cán bộ nhà nước, chuyên gia khoa học có học hàm học vị cao hoặc là đảng viên, căn cứ vào Luật Công chức và theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) của Đảng, những người nói trên cần được bảo đảm phát huy dân chủ trong phê bình và tự phê bình, để ngày càng làm tốt hơn phận sự của mình trong khi thực thi công vụ vì dân, vì nước, vì tính chất tiên tiến và nhân văn của khoa học xã hội Việt Nam.
Rất mong thiển kiến của chúng tôi được trao đổi chân tình và dân chủ, xây dựng, bảo đảm cho từng người trong đội ngũ trí thức khoa học của đất nước, đề cao được tinh thần “thực sự cầu thị” để tiến bộ, tiến bộ mãi, đoàn kết gắn bó trên lĩnh vực nghiên cứu khoa học và đào tạo, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ và đòi hỏi nghiêm túc của nghề nghiệp.
Hà Nội, tháng 7-2013
- - - - - -
(1) Xem: - “Tài liệu Hội nghị Lý luận - phê bình văn học lần thứ III” in vi tính tháng 6-2013, sử dụng nội bộ của Hội Nhà văn Việt
- Diễn đàn Văn nghệ Việt
- “Hội nhập để nâng cao năng lực thẩm mỹ” (vanhocquenha.vn đăng ngày 4-6-2013)