Dân gian có câu nói: giúp của không giúp đũa ăn cơm. Có
nghĩa là anh đói tôi giúp cho tiền bạc nhưng nghề nghiệp, cách làm ăn lại giấu
kín không chỉ. Chẳng ai chỉ đường đi buôn. Bấy lâu cứ tưởng câu nói cho người
một con cá không bằng cho cần câu là của dân gian không ngờ chính Lão Tử đã nói
câu ấy. Tương tự đức Phật có dạy ba loại tài thí, vật thí và pháp thí. Pháp thí
được xếp cao hơn cho thấy việc tu phước chẳng dễ. Theo kinh, Phật dạy vật đem
bố thí có mười loại thường thấy như bố thí vật thực, nước uống, vải, xe cộ,
bông hoa, vật thơm, vật để xức, chỗ nằm, chỗ ở, đèn. Về miền Tây ta thấy ở thôn
quê trước cửa mỗi nhà để lu nước uống, hoặc là ở thành phố Hồ Chí Minh nhiều
ngả đường thấy để thùng nước đá trà dành cho kẻ lở đường – đó là bố thí nước.
THÁNG BẢY TU PHƯỚC BÁO HIẾU
NGÔ KHẮC TÀI
I.
“Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” câu Kinh Kim Cang có nghĩa
cần phải không trụ vào chỗ nào mới sinh ra tâm. Nhưng tiếp tục hỏi, vậy tâm
thiện bố thí, làm phước được sinh ra từ đâu. Sẽ có người cho là câu hỏi bắt
quàng đang nói chuyện này bắt qua chuyện kia chẳng dính vô đâu. Thay vì trả lời
bằng câu chữ để thấy sợi chỉ đỏ xuyên qua mọi lời Phật dạy qua những vấn đề
khác nhau, đối tượng nghe cũng khác nhau. Xin kể một câu chuyện dân gian được
Huỳnh Tịnh Của ghi lại trong chuyện giải buồn, có nhan đề,”ăn mày xin vàng”
Có một người rất giàu và cũng rất hà tiện keo kiệt không làm dang làm phước cho ai bao
giờ. Một hôm có người ăn mày đến xin. Chẳng xin tiền hay xin gạo, xin món gì hết mà theo nằng nặc
xin một nén vàng. Tay nhà giàu sai đầy tớ đuổi
đi nhưng gả ăn mày không chịu đi mà cứ la lết trước cửa nhà lải nhải rất khó
chịu… suốt ba năm trời. Tay nhà giàu nổi máu
tò mò, dù sao nó cũng bỏ công nên chịu cho và sai tên đầy tớ theo dõi – gả ăn
mày được nén vàng đi đâu và làm gì với nén vàng. Tên đầy tớ đi theo thấy tên ăn
mày cầm nén vàng thảy lên thảy xuống nhảy nhót mừng rở. Lát sau đến bên gốc cây
chắc là mệt nên nằm xuống ngủ tay cầm nén vàng để trên bụng. Đứa đầy tớ lén lấy
lại nén vàng đem về trả cho chủ. Lát sau lão ăn mày thức dậy thấy mất của, xăm
xăm trở lại xin nén khác. Người nhà giàu nói “tui mới cho đây làm gì hết mà còn
đi xin nữa vậy cha” lão ăn mày nói “Tôi – vừa – nhắm – mắt, nó – liền – mất –
đi, nên phải xin ông nén khác thôi”. Nghe nói ông nhà giàu dường như được soi
sáng tấm lòng ngộ ra sự đời. Rõ ràng đời là ảo, con người ta hễ nhắm mắt rồi
chẳng còn của cải sự nghiệp. Bắt đầu từ chỗ nhận thức của cải chỉ là ảo ảnh
tiếp đến là suy nghĩ về cái chết mình để lại gì. Anh nhà giàu bỗng ngộ phát tâm
đêm tài sản của cải ra làm phước bù cho bản tánh keo kiệt trước đây. Suy nghĩ
lại, mới hiểu người ăn mày ấy là Bụt hiện ra.Chỉ cĩ Bụt mới thay đổi được suy
nghĩ của những người bảo thủ, trì trệ nhất. Anh nhà giàu đứng là có duyên gặp
được Bụt. Vậy có phải làm phước còn bắt đầu từ chỗ ưng vô sở trụ…
II
Thứ hai là bố thí, làm phước còn có gốc từ lòng thương
người. Nhưng tình thương ấy xuất phát từ bản năng nên việc so sánh giữa người
này người kia, thấy mình cho thấy người nhận không tránh được. Văn hóa Việt dường
như nhìn ra cuộc sống muôn màu nên có câu – Thi ân bất cần báo. Và còn đi xa
hơn ngay từ lúc còn thơ ấu trẻ con đã được người lớn dạy – thương người như thể
thương thân. Làm sao thương người như thương mình được, mấy ai có tấm lòng vàng
thể hiện lời khuyên kia. Đa số lúng túng rồi đọc kinh Phật lại bị sốc thêm khi
thấy Phật tuyên bố “ai chăm sóc cho những kẻ nghèo hèn, bệnh tật, chính là chăm
sóc cho Như Lai”. Đức Phật nói vậy chẳng khác nào nói, hãy nghĩ tới mọi người
trước mới mong gặp Phật. Hóa ra việc siêng năng đi chùa lạy phật chẳng để ý đến
hoàn cảnh xung quanh, đó chỉ là công cốc. Làm phước gắn liền với vật chất, tiền
bạc, lại thêm một ngẩn ngơ khác khi đọc Phúc Aâm thấy chúa Jêsu dạy “vì con đời
này trong việc thông công với người đồng đời của mình. Ta nói cho các người
nghe. Hãy dùng của bất nghĩa để kết bạn, để khi của ấy hết đi, họ tiếp các
người vào nhà đời đời. Thú thật tôi cảm thấy khó chịu trước tiếng nói lạ. Sao
lại dùng của bất nghĩa đi cho. Của làm ra từ mồ hôi thì sao… Hóa ra các chương
trình kêu gọi từ thiện, kêu gọi quyên góp xây thánh đường, chùa chiền có xen
vào thứ tiền gọi là bất nghĩa (mà thấy cũng có phần đúng như vậy làm ăn mà hiền
lành quá sao có tiền để cho, nhưng chẳng ai nói như Chúa nghe chói lỗ tai)… Mãi
nhiều năm sau này tôi mới hiểu được nhờ tình cờ tôi đọc “ Người Dublin” của nhà
ăn Aùi Nhỉ Lan James Joyce, ông cũng thú nhận đây là một trong những đoạn khó
hiểu nhất trong kinh thánh để có thể diễn giải cho đúng. Trong khi đức Phật là
một nhà thơ sống nội tâm, lời của Phật như mưa sâu thấm đất. Ngược lại chúa
Jêsu là thầy kế toán khắt khe đếm từng xu trong túi người. Tuy nhiên Jêsu cũng hiểu được nhược điểm của người đối với
tiền bạc đem tiền bất nghĩa đi cho rõ ràng là khó hiểu nhưng đọc trở lại câu
đầu tiên – vì việc thông công với người – có nghĩa là người còn có mối dây liên
hệ với cộng đồng, cuộc sống không đứng lại bất động mà nó trôi chảy. Hóa ra
chúa Jêsu ngoài kế toán tiền bạc còn là người kế toán về tinh thần. Hãy trung
thực. Hãy trung thực kiểm tra lại tài khoản của mình có, xem nó có khớp với
tinh thần không. Nếu hai cái không ăn khớp nhau hãy điều chỉnh nó lại cho đúng
đắn. Ơû đây phật cũng nói – giàu mà bố thí là một trong những việc khó ở đời.
Tuy nhiên người giàu, các nhà tư bản nếu hiểu được tiền bỏ ra làm từ thiện, nó
chẳng mất đi đâu, mà nó chính là đồng tiền sống quay vòng trong xã hội, để rồi
nó cũng trở lại với mình, công ty thương hiệu phát triển được nhiều người biết
tiếng hơn. Có phải là như vậy.
III
Niệm Phật và làm phước là hai pháp môn cần thiết để tu tâm,
dưỡng tánh phù hợp với căn cơ nhiều người. Tưởng tu là khó, còn nói tu chỉ cần
như vậy thì rất dễ. Có phải ta thường nghe người nói vậy. Đó là cái nhìn căn cứ
vào việc làm bề ngoài, không đi sâu vào bên trong. Thấy sự việc đơn giản nhưng
sự thật phải trải qua quá trình rèn luyện công phu. Thấy dễ thật ra là khó. Khó
ở chỗ niệm Phật, mặc dù đức Phật từ bi nhưng mọi chuyện lại là do nhân quả, do
tâm của người. Khó ở chỗ làm phước chỉ thấy vật chất của mình bỏ ra nhưng còn
chữ phước. Làm biết được mình có phước hay không, mặc dù có đem tiền triệu bố
thí cúng dường. Phải chăng những việc làm của người chỉ có trời cao, đôi mắt
trí huệ mới biết, ai thật sự là kẻ nhân đức có phước, đời này còn ở đời sau.
Tưởng là dễ thật ra làm phước, tu phước chẳng dễ chút nào với những ai thật sự
có thiện tâm, thương người như thể thương thân. Kinh Phật đã nói hết, bố thí
không hề đơn giản.- Cất 100 ngôi chùa, chẳng bằng cứu sống một người. Mặc dù
kinh luật nói từ ngàn xưa, y như nói với thời hiện tại. Bạn thấy nó dễ hay khó.
Nhiều người siêng năng đi chùa trong lúc xã hội lại có kẻ nằm chờ chết vì không
tiền chữa trị. Tâm lý con người phức tạp. Muốn cho nhưng lại nghĩ “cho hết, lấy
gì để xài”. Đúng ra phải nghĩ ngược lại “xài hết, lấy gì bố thí”. Đức Phật với
đôi mắt nhìn thấu suốt cả người ta nên trong kinh Niết Bàn dạy. Có ba việc bố
thí không thanh tịnh – trước muốn cho nhiều khi cho lại rút bớt – Chọn vật xấu
cho người, vật tốt giữ lại cho mình – Đã cho xong, sinh tâm hối tiếc của đem
cho. Chẳng những đức Phật nói, giàu khó bố thí như nói ở phần trên, mà nghèo
cũng khó bố thí. Khó vì đâu phải lúc nào mình cũng có sẵn để mang ra cho (thiện
tâm của người chính là ở đây). Lúc nhỏ tôi nhớ má tôi mà một số người lớn ở
quê, là dân miền tây thấm nhuần văn hóa đạo Phật. Mỗi khi xúc gạo nấu cơm, má
bốc một hai nắm bỏ vô trong cái hủ. Má tôi dạy, buổi cơm thiếu một hai nắm gạo
không sao nhưng nhà lúc nào cũng có thứ để cho người đến xin. Nó gọi là tích âm
đức. Ngày nay không còn thấy cảnh ăn xin đeo bị bên hông để xin gạo như ngày
xưa… mà xin tiền. Tôi thấy có người gặp tiền lẻ bỏ vô trong cái hộp để riêng ra
dành cho những ai cơ khổ lở đường. Những người mặc dù chẳng khá giả nhưng có
thiện tâm (tôi không được như vậy) rõ ràng là đã gieo nhân. Và gieo nhân thì
gặt quả, mặc dù không biết kiếp sau người hưởng được quả gì, nhưng người thành
hình đức tin vào luật nhân quả từng kiếp sống nối tiếp nhau và tiếp tục gieo.
IV.
Ta đã hưởng, đã chịu ơn nhiều của xã hội, việc bố thí, làm
phước của ta dường như đó cũng là bổn phận của con người để góp phần (trả lại)
rất nhiều người không biết việc mình làm là đã tu. Và trong nhiều pháp môn, có
pháp môn chủ yếu thuộc về hành rất ít người phân tích (ai đem phân tích một mùi
hương). Đó là pháp môn tu phước. Có phải nó bắt đầu từ nhận thức cõi đời là phù
du như đã nói người sanh thiện tâm. Tiếp tục người tu phước cần phải giữ gìn
năm giới. Tại sao. Tại vì không sát sanh là làm phước, bố thí tánh mạng cho tất
cả chúng sanh lớn hoặc nhỏ. Không trộm cắp là bố thí sự an toàn, an lạc cho xã
hội. Không tà dâm, không nói dối cũng như vậy. Uống rượu, dùng chất say sưa là
nguồn gốc gây ra bao tội lỗi. Không uống rượu, dùng các chất say là mang đến
cho xã hội niềm vui. Giữ năm giới còn
gọi là năm đại thí hưởng quả báu không bị oan trái, không ai làm khổ mình,
người ai mộ mình rồi có uy tín với xã hội. Trong lúc bố thí ta cảm thấy không
hài lòng ở người thọ thí (làm biếng chẳng chịu làm lụng chờ người tới cho.v.v…)
do đó người tu phước tiếp tục đồng hành với xả. Đồng hành với sự hoan hỷ. Trong
hai loại này bố thí hoan hỷ bất cứ trường hợp nào vì vậy phước đức cao hơn bố
thí xả. Tu phước dễ hay khó. Dân gian có câu nói giúp của không giúp đũa ăn
cơm. Có nghĩa là anh đói tôi giúp cho tiền bạc nhưng nghề nghiệp, cách làm ăn
lại giấu kín không chỉ. Chẳng ai chỉ đường đi buôn. Bấy lâu cứ tưởng câu nói
cho người một con cá không bằng cho cần câu là của dân gian không ngờ chính Lão
Tử đã nói câu ấy. Tương tự đức Phật có dạy ba loại tài thí, vật thí và pháp
thí. Pháp thí được xếp cao hơn cho thấy việc tu phước chẳng dễ. Theo kinh, Phật
dạy vật đem bố thí có mười loại thường thấy như bố thí vật thực, nước uống,
vải, xe cộ, bông hoa, vật thơm, vật để xức, chỗ nằm, chỗ ở, đèn. Về miền Tây ta
thấy ở thôn quê trước cửa mỗi nhà để lu nước uống, hoặc là ở thành phố Hồ Chí
Minh nhiều ngả đường thấy để thùng nước đá trà dành cho kẻ lở đường – đó là bố
thí nước. Ngoài 10 loại vật thí thường thấy, kinh có dạy nhiều vật thí khác đem
lại lợi ích cho cuộc sống, chẳng những cho kiếp hiện tại mà cho lẫn kiếp vị
lai. Nhưng bài tìm hiểu về tu phước đến đây đã khá dài. Xin phép được nói thêm
cái gọi là trường cửu thí. Tức là bố thí làm phước những vật có tính bền vững
lâu dài. Chừng nào nó còn tồn tại, thì phước thiện của người cũng ngày đêm tăng
trưởng. Trường cửu thí có 6 loại 1- làm phước trồng cây ăn quả cho bóng mát. 2-
làm phước trồng cây gỗ quý, trồng rừng chẳng hạn. 3- làm phước xây cầu để người
qua lại. 4- làm phước đào giếng lấy nước uống. 5- làm phước xây nhà trọ cho dân
nghèo, xây dựng sửa chữa chùa chiền. 6- xây trường dạy nghề nuôi dưỡng người
già, trẻ mồ côi.
Hiện tại xã hội rất cần cái gọi là trường cửu thí như vậy.
V.
Làm phước,
bố thí đứng đầu trong các pháp ba la mật
và hổ trợ cho các pháp. Về giới hạnh của người thì hạnh hiếu đứng đầu. Tháng
bảy mưa sụt sùi, đất trời hắt hui. Tháng này âm dương như xích lại gần với
nhau. Người như cảm nhận được điều này nên tháng bảy còn là tháng người hướng
về nhau. Do đó từ xưa trong tháng bảy có chuyện Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau qua
cầu Ô Thước. Tích Ngài Mục Kiền Liên tìm
mẹ. Tục lệ cúng cô hồn. Cũng không có gì lạ ngày lễ kỹ niệm thương binh liệt
sĩ, chiến sĩ trận vong cũng diễn ra trong tháng này, nói về chữ hiếu, tất nhiên
là con cái phải phụng dưỡng nuôi nấng cha mẹï đầy đủ món ngon vật lạ. Nhưng có
thật là hiếu thảo không khi cha mẹ vì món ngon vật lạ kia mà mặt phải xấu hổ
cúi đầu xuống không dám nhìn lên. Hay là hiếu được đánh giá cao nhất là làm
những điều để cho cha mẹ vui, xóm làng ngưỡng mộ. Không biết tục lệ cúng cô hồn
xuất phát từ đâu. Mới nhìn cho nó là dị đoan, xét kỹ mới thấy đó là nét văn hóa
tinh tế của người phương đông mang tính nhân văn tình thương trải rộng muôn
loài, thập loại chúng sinh. Người đang sống nhớ tới bao vong hồn khác chết xiêu
mồ lạc mả lang thang đầu đường xó chợ đói khát đợi người bố thí vào ngày này
(mâm cúng cô hồn gồm có gạo muối, mía chặt khúc, áo giấy, cháo, bộ tam sên,
bánh ú, bánh cấp. Sau khi cúng xong chủ nhà xả giàn cho đám con nít nhảy vô
dành lấy đồ cúng). Lúc nhỏ vào tháng bảy tôi thường hay theo bọn trẻ trong xóm
đi cướp xả giàn. Rất là vui nhưng tôi không hiểu hết ý nghĩa của nó, đôi khi bị
người lớn mắng cho _ đồ cô hồn sống. Mãi khi lớn lên nhớ lại thấy vui vui, chợt
giật mình trước mấy tiếng cô hồn sống. Nó mang ý nghĩa không tốt đã đành nhưng
cô hồn sống đặc biệt với tiếng cô nghĩa là sự cô độc không biết nương tựa vô
đâu. Có phải nó còn bao gồm những người đau yếu bệnh tật không tiền chữa trị,
sống vất vưỡng ở đâu đó nằm chờ chết. Có phải những đứa trẻ mồ côi lang thang
đầu đường xó chơ kiếm miếng ăn. Có phải và có phải. Trong tháng bảy tình cờ tục
cúng cô hồn trùng với lễ Vu Lan tích Mục Kiền Liên xuống địa ngục tìm cách cứu
mẹ. Lần này hầu như ai cũng biết bồ tát Mục Kiền Liên vì sự tích rất lôi cuốn
hấp dẫn mà không để ý đến….Chính sự cúng dường, làm phước để cứu bà Thanh Đề
thoát khỏi địa ngục là hình thức báo hiếu cao nhất để xây dựng nên câu chuyện,
Chính là điều đức Phật muốn dạy chúng ta. Tới đây thì kết luận được rồi. Con
cái có rất nhiều điều làm cho cha mẹ vui. Nhưng rõ ràng điều cha mẹ vui hơn cả
được ai cho vàng là đứa con ăn nên làm ra của mình biết nghĩ đến người nghèo,
người đau khổ xung quanh. Ý nghĩa là cha mẹ được hưởng phước từ thiện tâm của
con cái mình sẽ được sống lâu (phước kia lớn vô cùng). Làm phước bố thí quanh
năm nhưng đặc biệt tới tháng bảy là
tháng hội đủ những điều kiện để người tu phước thể hiện tấm lòng bố thí cúng
dường. Rõ ràng để báo hiếu cha mẹ không
gì bằng người làm việc từ thiện tu
phước.
Long
Xuyên rằm tháng bảy 2013