Trời se lạnh. Tôi đang đi trong cảm xúc hoang hoải của miền
đất bán sơn địa, trên đất Thái Nguyên, bỗng có những tiếng cười ròn rã trên một
đồi chè. Tôi ngước nhìn, thì ra đã là Tân Cương, với cái biển đề to đùng của một
nhà máy, như một cái mốc biên giới của một vùng chè nổi tiếng. Sông Công chảy
êm đềm, uốn khúc giữa những đồi chè xanh ngút ngát. Một con thuyền vào lấy hàng
của gia chủ. Thế là tôi sán vào hỏi han mấy ông đang ngây ngất với điếu thuốc
lào. Sẵn có ấm trà. Họ mời tôi một chén. Nhận ra cái chất của trà Tân Cương
Thái Nguyên, có vị ngọt đọng lại sau hương hoa sói.
LÊN TÂN CƯƠNG NGHE TRÀ KỂ CHUYỆN THĂNG TRẦM
LƯU CƯỜNG
1-
Đúng là trà móc câu! Tôi chợt thốt lên làm ra vẻ sành điệu,
thì bất ngờ có một bác ngồi bên bờ sông nói lại rằng, đây là thứ trà mốc cau
sau khi đã làm hương, đánh mốc cho chè móc câu, tạo nên một thứ chè có mầu đốm
trắng như hoa cau non. Thế mới là trà đặc sản Tân Cương. Thật rắc rối, tôi cười
trừ rồi hỏi nó khác nhau thế nào, thế là tôi được nghe bao nhiêu chuyện từ người
nông dân trồng chè này. Mấy người trên thuyền cũng xúm quanh ấm trà…
Giọng ông trầm
ấm, kể từ khi chè ở vùng này sản xuất theo tiêu chuẩn VIETGAP, nghĩa là chè sạch
và áp dụng kỹ thuật trồng trọt hiện đại, chất lượng chè Tân Cương lại càng được
ưa chuộng trên thị trường quốc tế. Nhưng ông nhấn mạnh, có mỗi chuyện hái chè
là cái anh máy móc chịu chết, vì không thể tách ra được theo cái gọi là “một
tôm hai lá”. Ông cười, thế là cả cái vùng chè rộng lớn này vẫn phải trông vào
bàn tay khéo léo của các cô, các bà. Cứ phải “một tôm hai lá” mà chơi, mà ở
cành non quá cũng không được, nát ngay. Vậy phải tinh con mắt, mơn mởn đấy,
nhưng phải tựa cánh hạc cứng cáp…
Ông lim dim
đôi mắt, nhớ lại cái đận vào những năm 1920, ông tổ ngành chè ở Tân Cương cũng
đã lấy cái tên “Cánh Hạc” để quảng bá cho vùng chè mới mẻ này. Đó là hình tượng
của búp chè một tôm hai lá đều nhau tăm tắp. Và chè ngon “Cánh hạc” đã được tôn
vinh Giải nhất ở khu Đấu xảo (Hội chợ thương mại Hà Nội) năm 1935. Ngay lập tức
các thương gia Ân Độ đã đến tận Thái Nguyên để đặt hàng mang đi các nước.
Trầm ngâm một
lúc, rồi ông diễn giải, cho dù với thương hiệu “Cánh Hạc” hay “Tân Cương”, hoặc
“Tân Cương-Hoàng Bình”…thì vị chè ở đây không hề thay đổi. Nó còn được gọi là
thứ “ngọc ẩm”, khác hẳn với chè các vùng lân cận, kể cả chè Phú Thọ, nơi mà chè
Tân Cương đã lấy giống ở đó về trồng. Ông khẳng định giống hạt ban đầu là ở Phú
Thọ đấy, nhưng mang về đất này trồng lại khác hẳn, đã biến hóa thành những cây
chè xanh tốt có tán rộng tới hàng mét và có vị chát đậm và ngọt hậu mà những
vùng chè khác không thể có. Điều này thì tôi cũng có những trải nghiệm nên rất
tán thưởng.
Tôi đã đến vùng
chè Bảo Lộc, Lâm Đồng, hay Mộc Châu-Sơn La, hoặc Tùa Chùa, - Biên, hay Sa Pa-Lào
Cai…đều không thể có dư vị ngọt hậu thơm đến thế. Ông bất chợt hỏi tôi có biết
vì sao chè ở Tân Cương có nét độc đáo đó không. Tôi ớ ra và ngơ ngẩn như chú bò
độ nón vậy. Ông lại cười thú vị nói, cái đất, cái nắng, cái gió, giọt sương,
áng mây ở đây kỳ lạ lắm. Ông trời đã sắp xếp hết cả. Này nhé, ông kể con sông
Công chảy qua làng là một nguồn nước vô tận cho việc tưới tiêu trên các đồi chè
mâm xôi, đồng thời sông cũng là cái máy điều hòa thời tiết mỗi khi nóng bức gió
đông lãnh lẽo. Ngay kể cả vùng Hồ Núi Cốc cũng góp phần tạo nên một không khí dịu
mát thỏa mãn cho cây chè sinh trưởng. Còn nữa, ông chỉ về phía dãy núi Tam Đảo,
chính là màn chắn che ánh nắng gay gắt phia Tây chiếu rọi vào các đồi chè. Những
ánh sáng tán xạ tỏa khắp vùng tạo nên một độ ẩm của gió làm cho cây chè đọng lại
những tinh chất của đất nuôi dưỡng.
Ấy lại nói đến
thổ nhưỡng là cái chính, đó là một bí mật của chè Tân Cương. Ông tả đất ở đây
là đấy sỏi cơm, màu đỏ son, pha đất sét nhẹ, hơi bị chua (vì có độ PH từ
5,5-7,0), nên chè Tân Cương mới có vị chát đượm và ngọt hậu. Thế mới hay vì sao
ánh mắt của các cô gái ở đây long lanh đến thế. Có thể vì cái nắng, cái gió và
cái vị chè ở đây chăng, nên da người nào cũng đẹp mịn màng, với vóc dáng dịu
dàng thon thả. Từ xưa ai cũng đều nhớ đến câu ngạn ngữ “Chè Thái-Gái Tuyên”, quả
sự ví von này thật đẹp, thật ngon, nếu không lên đây thưởng thức hương vị chè tại
nơi này.
2-
Bất ngờ ông lái đò mời tôi lên đò đi dọc sông Công, để ngắm
từ đầu đến cuối xã Tân Cương với hàng trăm đồi chè mâm xôi cùng những đồi chè bậc
thang cuồn cuộn, tạo thành hàng trăm lớp sóng từ trên cao. Tôi mừng hết nói.
Con thuyền đi chậm với những thùng chè đã được đóng gói. Ông lái đò chỉ về phía
núi Guộc, chính ở đó là những trại chè đầu tiên của ông tổ chè Đội Năm. Ngày đó
chè được cập bến rải rác hai bờ sông Công. Ngày ngày, tập nập thuyền đến ăn
hàng. Rồi ông kể cũng chính tại nơi này, xã Tân Cương chính là địa chỉ quan trọng
của Việt Bắc, khi là trung tâm đào tạo những sĩ quan của lực lượng vũ trang
cách mạng vào những năm cuối thập niên 40 và đầu 50. Trụ sở các trường đều đóng
ở đây. Đó là Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn, Trung đoàn Tu Vũ, và Trường Quân
chính Quân khu Việt Bắc. Khi chiến dịch Điện Biên Phủ chiến thắng lừng lẫy khắp
năm châu bốn biển, đều có công đóng tích cực của những người con nơi đây.
Con thuyền gần
cập bến, ông nói tôi có thể đưa xe máy lên, rồi đi về phía nam Hồ Núi Cốc, một
biển hồ gồm 89 đảo to nhỏ khác nhau, tựa như Hạ Long thu nhỏ vậy. Bất chợt, ông
chỉ con nước sông Công mà kể rằng chuyện tình Chàng Cốc-Nàng Công đều bắt nguồn
từ con sông này. Hai bờ sông là nơi chàng trú ngụ và đồi núi là nơi chàng thường
lên đốn củi. Vì đời quá nghèo, chàng Công chỉ biết trút nỗi lòng vào tiếng sáo
não nề. Có lần đi làm thuê cho quan lang, tiếng sáo của chàng Cốc đã làm mê hoặc
tình cảm cô gái con nhà quan. Nhân duyên nảy nở, nhưng đâu có được. Chàng gặp
bao thử thách và cay đắng để mong được hạnh phúc. Nhưng quan Lang đã phản bội lời
ước nên chàng sống trong tuyệt vọng và hóa đá. Núi Cốc có từ đó. Còn cô con gái
cũng sống trong khổ đau và thương nhớ người yêu và khóc ròng ngày đêm, rồi tan
thành nước chảy đến không cùng, đó là dòng sông Công hiện nay…

Giọng người lái đò buồn trĩu theo tôi, với
chuyện tình đẫm lệ đi ngược con đường Tân Cương về thành phố Thái Nguyên. Phía
sau tôi là Hồ Núi Cốc, bồng bềnh trong những cánh cò trắng bay với những áng
mây nõn nà dưới bầu trời xanh mênh mang. Còn phía trước là khu Bảo tàng, hay là
Nhà Văn hóa, hoặc khu Thương mại của xã Tân Cương, kề bên con đường. Khu nhà tổng
hợp trên một bãi cỏ xanh rì được thiết kế khá đẹp, mang vóc dáng một khu thưởng
trà xưa rộng rãi, nên có nhiều phòng uống trà. Nơi đây cũng là địa chỉ cho các
thôn xóm giới thiệu các loại trà thành phẩm với chất lượng cao nhất. Tuy khu nhà
văn hóa truyền thống này không thay cho cái chợ chè cũ Tân Cương của xã bấy lâu
nay, nhưng người qua đường có thể rẽ vào thưởng thức trà ngon thơm mới ra lò và
có thể tham khảo chọn mua về. Lại nhớ, ngày Lễ hội trà lần thứ nhất năm 2011
tôi có dịp vào đây, thưởng thức chè mộc ủ hương hoa Sói. Hương vị của “ngọc ẩm”
của xã Tân Cương, cùng với những bộ sưu tầm ấm cổ, luôn là ký ức tuyệt vời đối
với tôi. Hai năm trôi qua. Vậy mà nay, mọi người lại đang nô nức chuẩn bị cho Lễ
hội trà lần thứ hai vào tháng 11, năm 2013, được tổ chức tại Thành phố Thái
nguyên.
3-
Khi rẽ vào phòng truyển thống tôi gặp lại câu chuyện của 80
năm về trước với lịch sử của thương hiệu “Con hạc” một thời. Cô gái thuyết minh
nói, đó là niềm tự hào của người dân xã Tân Cương và cũng là niềm vinh dự của cả
ba xã vùng chè Tân Cương này. Người dân vẫn còn ghi nhớ công ơn của ông qua những
dòng chữ trên bức hoành phi: “Quân tử Vũ bản” và một câu đối: “Di dân không mất
đi tinh thần, phong tục, đồng lòng khai phá hướng tương lai / Tụ nghĩa gian
nan, chí hướng cũng gian nan, trước sau ăn ở trong sáng, vững bền”.
Tôi đi miên
man với sự mất còn của một chốn quê ngát hương. Cho dù chỉ một cái tên Tân
Cương ngỡ là đủ, nhưng thực ra vùng chè này gồm cả ba xã cùng chung một khu vực
sinh thái, đó là các xã Tân Cương, Phúc Xuân, Phúc Trìu. Vậy rất cần có những
cái tên tạo nên thương hiệu cho Tân Cương cụ thể hơn nữa. Như ta đã biết,
thương hiệu Tân Cương- Hoàng Bình, của một người từ xa đến xã dựng nghiệp chè,
cách đây chưa lâu, đã có sức lan tỏa và xuất ngoại đi nhiều nước, trong đó có cả
Mỹ. Ngẫm, tôi lại thấy tiếc cho cái tên “Cánh Hạc” là một thương hiệu lớn đầu
tiên, đích danh của xã Tân Cương, cách đây 80 năm lại bị mất. Mà đối với thương
trường hiện nay, việc tạo dựng được thương hiệu, mới là sự sống còn. Ôi nỗi nhớ! Hình ảnh “Cánh Hạc” một chiều cuối thu, man
mác buồn tênh.