Thời gian gần đây, thiền đang trở thành một trào lưu trong
xã hội. Nhiều người tìm đến với phương pháp thiền dù còn khá mơ hồ về… thiền. Để
giúp độc giả có cái nhìn cụ thể và khoa học về thiền, Nhà thơ – bác sĩ Đỗ Hồng
Ngọc vừa phát hành cuốn “Thiền và sức khỏe”. Theo bác sĩ Đỗ Ngọc Ngọc: “Ở góc độ
người thầy thuốc, tôi quan tâm đến thứ thiền đơn giản mà hiệu quả trong giữ gìn
sức khỏe, nâng cao sức khỏe và chất lượng cuộc sống. Đó là thứ thiền trong đời
sống hằng ngày. Nó liên quan đến sức khỏe, đến khoa học y học, được nghiên cứu
và ứng dụng khá rộng rãi hiện nay. Nó đã mang lại những hiệu quả rất bất ngờ,
chữa được nhiều căng thẳng (stress), lo âu, nhiều bệnh lý do hành vi lối sống
gây ra mà thuốc men không thể chữa dứt. Thiền giới thiệu trong cuốn sách này là
thiền “Quán niệm hơi thở”, nghĩa là quan sát, dõi theo và nhớ, nghĩ (niệm) về
hơi thở vào, hơi thở ra của chính mình”
Thiền và… những câu hỏi
@ Thiền học khác Phật
học như thế nào? Zen là gì? Học thiền mà không theo đạo Phật được không?
Đỗ Hồng Ngọc: Được
chứ! Nên nhớ Thiền đã có từ ngàn xưa trước khi có Phật giáo. Nhiều tôn giáo
cũng ứng dụng thiền vào việc tu tập như định tâm, cầu nguyện, đọc kinh, “thần
chú”... tất cả đều có mục đích thanh lọc thân tâm, từ đó mà tuệ giác (huệ) sẽ bừng
sáng. Tuy vậy, thiền Phật giáo có những sắc thái riêng, con đường dẫn tới giải
thoát rốt ráo.
Thiền học là một phần của Phật học, nhưng là phần cốt lõi.
Phật học có nhiều tông phái như Nguyên thủy, Đại thừa, Thiền tông, Mật tông, Tịnh
độ tông v.v... nhưng nguồn gốc vẫn là một.
Thiền ứng dụng vào y học, vào tâm lý học hiện đại còn có những
sắc thái khác nữa. Hiện nay có nhiều trung tâm thiền không tôn giáo mọc ra khắp
nơi trên thế giới. Nhiều người hướng dẫn thiền tập bằng rất nhiều cách khác
nhau, nên rất cần phải “tỉnh táo” để chọn lựa cách nào phù hợp nhất với cá nhân
mình, có cơ sở khoa học, để không gây hoang mang, thất vọng hoặc gây những
“side-effects” không hay khác.
Zen có gốc từ chữ Dhyana (Sanskrit) hay Jhana (Pali), được dịch
âm thành Chan (Hoa) rồi Zen (Nhật) Thiền (Việt) v.v... Tây phương dịch là
Meditation. Các từ khác liên quan đến thiền nên biết để tiện tra khảo: Niệm,
chánh niệm (Sati) là Mindfulness; Quán niệm hơn thở hay An-ban thủ ý
(Anapanasati) là Mindfullness of breathing...
@ Nghe Thiền sao thấy
có vẻ cao siêu, huyền bí quá?
Đỗ Hồng Ngọc: Quả
có những thứ thiền “cao siêu huyền bí”. Đó là thứ thiền dành cho các vị tu sĩ,
ngồi tĩnh lặng trên đỉnh núi tuyết cao, trong hang động sâu, xả ly, xa lánh bụi
trần, hòa nhập vào vũ trụ mênh mông… Đó là thứ thiền của những vị Alahán, Bồ-tát,
nhà tu khổ hạnh, người bình thường chúng ta chỉ biết kính nhi viễn chi.
Ở góc độ người thầy thuốc, tôi quan tâm đến thứ thiền đơn giản
mà hiệu quả trong giữ gìn sức khỏe, nâng cao sức khỏe và chất lượng cuộc sống.
Đó là thứ thiền trong đời sống hằng ngày. Nó liên quan đến sức khỏe, đến khoa học
y học, được nghiên cứu và ứng dụng khá rộng rãi hiện nay. Nó đã mang lại những
hiệu quả rất bất ngờ, chữa được nhiều căng thẳng (stress), lo âu, nhiều bệnh lý
do hành vi lối sống gây ra mà thuốc men không thể chữa dứt. Thiền giới thiệu
trong cuốn sách này là thiền “Quán niệm hơi thở”, nghĩa là quan sát, dõi theo
và nhớ, nghĩ (niệm) về hơi thở vào, hơi thở ra của chính mình. Đi từ phương
pháp “thở bụng” giản đơn – nhưng đã có hiệu quả tốt đối với sức khỏe- đến thiền
quán niệm hơi thở là một bước tiến xa, từ đó có thể đi sâu đến “thành tựu chánh
trí”, đến tuệ giác về vô thường, về duyên sinh, về không, về vô ngã v.v…
@ Xin vui lòng cho biết
ngoài cách thiền Phật giáo ra thì còn bao nhiêu cách thiền khác nữa? Cách thiền
đơn giản nhất có phải là ngồi kiết già nhắm mắt và không suy nghĩ để cho tâm lặng
phải không?
Đỗ Hồng Ngọc: Thiền
Phật giáo như đã nói có hai cách: Thiền chỉ (Samatha) và Thiền quán
(Vipassana). Kinh Viên Giác hướng dẫn 25 cách thiền. Hiện nay có tài liệu đưa
ra 112 cách. Y học cũng đang nghiên cứu ứng dụng để từ đó tìm ra những “bằng chứng”
cụ thể, và “liều lượng” thích hợp trong chữa trị và phòng ngừa bệnh tật nên còn
hứa hẹn nhiều phương pháp thiền tập nữa. Nhưng nên nhớ, đó chỉ là phương tiện...
“Ngồi kiết già nhắm mắt
và không suy tưởng” không phải là điều đơn giản nhất đâu mà thực sự là một điều
cực kỳ khó. Ngồi kiết già đã khó, nhiều người không thể ngồi được - nên ta có
thể chọn cách ngồi bán già, thậm chí quỳ trên gối, ngồi lên gót chân, ngồi trên
ghế… đều thiền được. Nhắm mắt là cách để không bị ngoại cảnh chi phối, nhưng có
người không cần phải nhắm mắt, có người lim dim… sao cũng được, tùy thói quen của
mỗi người. Tâm trí ta như khỉ như ngựa (tâm viên ý mã) nhảy nhót lung tung,
“gom” lại được không dễ. Vì thế mà phải tìm cách nào đó để gom tâm trí lại một
nơi. Có thể là tiếng đọc kinh, có thể là tiếng mõ, tiếng chuông, có thể là một
“câu thoại đầu” bí hiểm, có thể là tràng hạt… và tốt nhất là “chánh niệm” vào
hơi thở vào hơi thở ra, vì nó trung tính và có đầy đủ những tính chất của một
“pháp” để mà suy gẫm, “quán niệm”. Nếu “dừng” được tâm thì đã ở giai đoạn thiền
chỉ (samatha) rồi vậy.
@ Đâu là bài tập thiền
đơn giản nhất mà tất cả mọi người có thể luyện tập được?
Đỗ Hồng Ngọc: Theo
tôi, thiền “Quán niệm hơi thở” (Anapanasati), còn gọi là An-ban thủ ý hay Nhập
tức xuất tức niệm (meditation of breathing) là cách thiền đơn giản mà hiệu quả
nhất, được Phật dạy trong kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthanasutta) và được nhắc đi
nhắc lại rất nhiều lần : “Đây là con đường độc nhất dẫn tới thanh tịnh cho
chúng sanh, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng đắc Niết bàn…”. Đây là
một phương pháp rất “khoa học thực nghiệm”, áp dụng được cho tất cả mọi người.
Bắt đầu bằng tập thở bụng rồi tập đặt chánh niệm vào hơi thở, từng bước đi sâu
vào định và huệ. Hơi thở gắn với cảm xúc, lại gắn với hoạt động của cơ bắp. Hơi
thở là cầu nối giữa thân và tâm. Nhờ đó, ta có thể “can thiệp” vào hơi thở để
bình ổn thân tâm như đã trình bày trên.
@ Trở ngại lớn nhất
trong việc tập thiền là gì?
Đỗ Hồng Ngọc: Là
mất chánh niệm. Đang “chánh niệm” vào hơi thở thì có một ý tưởng (niệm) nào đó
chen vào, rồi lôi kéo theo vô số nhũng ý tưởng này khác, dẫn đi một lúc không
trở về được với hơi thở. Nào dĩ vãng, nào tương lai, nào lòng tham, sân trổi dậy,
cứ hết ý này đến ý kia, tràn ngập, một lúc hơi thở “mất kiểm soát”, cơ thể căng
cứng, bứt rứt (gọi là trạo cử), hoặc có khi ngược lại buồn ngủ, ngủ gà ngủ gật,
gọi là hôn trầm, thụy miên. Vậy là hỏng bét.
Nhưng không phải vì thế mà sợ. Ý tưởng cứ đến. Kệ nó. Một
lúc nó thấy không ai thèm quan tâm, chán, bỏ đi. Rồi ý khác lại đến. Lại kệ nó.
Ta không cần cố gắng xua đuổi. Càng xua đuổi, nó càng quấn quít. Cứ để tự
nhiên. Đến, chán rồi đi. Người mới tập, ý tưởng đến vô số và ở lại lâu lắc,
không chịu đi. Càng về sau, khi “thiện xảo” rồi (có kỹ năng rồi) thì những người
khách không mời mà tới này sẽ lẳng lặng bỏ đi, đi sớm. Vậy là thành công rồi!
Còn để cho được hoàn toàn không có một vị khách nào thì… còn lâu! Đừng nôn
nóng. Ta đang luyện tập mà!
Cái khoảng thời gian để trở về với hơi thở càng ngắn càng tốt,
chứng tỏ ta đã thành công từng bước.
Một trở ngại lớn nữa là sự nôn nóng, mong đợi, kỳ vọng…! Nôn nóng, kỳ vọng thì
dễ nản lòng, bỏ cuộc…
Cần chú ý không để bị thầy, bạn, “cưỡng ép” mình phải giống
như họ, trong khi về tâm lý, sinh lý, tuổi tác, hoàn cảnh… mỗi người mỗi khác.
Ráng bắt chước y chang sẽ rất nguy hiểm! Cho nên Phật mới dạy: Hãy quay về
nương tựa chính mình!
@ Thiếu không gian
tĩnh lặng, lại luôn bị áp lực bên ngoài làm mất tập trung?
Đỗ Hồng Ngọc: Thiền
không phải tập trung mà ngược lại, là thả lỏng. Không gian chỉ cần vài mét vuông là đủ. Cần một chỗ yên tĩnh,
khi quen thì ở đâu cũng “thiền” được. Đi đứng nằm ngồi gì cũng “thiền” được. Có
người ngồi thiền dưới gốc cây, bên bờ sông, giữa công viên, có người thiền ngay
trên bàn làm việc, sau giờ giao ban ở cơ quan hay sau buổi họp ở công ty...
Không mất thì giờ nhiều đâu. Tùy hoàn cảnh mỗi người mà thu xếp.
Áp lực bên ngoài tác động không đáng sợ bằng áp lực bên
trong. Chính những nỗi mong cầu, lo âu, bực dọc, sợ hãi… (tham sân si) trong
tâm tưởng mới làm cho ta bấn loạn, bứt rứt… Dĩ nhiên ở giai đoạn đầu mới thực
hành thiền thì ta dễ bị áp lực bên ngoài chi phối, dễ bị mất “chánh niệm”, cho
nên phải luôn tỉnh giác và tinh cần.
“Tinh cần - Tỉnh giác - Chánh niệm”
(Atapi Sampajano Satima) là những đức tính cần thiết cho người thiền tập
vậy.
@ Việc tập thiền giữa
phụ nữ và đàn ông có khác nhau không?
Đỗ Hồng Ngọc: Không. Phụ nữ dẻo dai,
bền chí hơn đàn ông. Phụ nữ hiện đại càng cần thiền vì đời sống quá nhiều
stress. Thiền giúp cân bằng cuộc sống. Thiền đúng, sẽ ít đau ốm lặt vặt, tươi
trẻ hơn và nói chung, hạnh phúc hơn. Nhưng cẩn thận. Đừng đi vào mê tín dị
đoan, bỏ nhà bỏ cửa rồi đổ thừa tại thiền!
@ Kiếm hiệp hay nói
“đưa hơi xuống huyệt đan điền” là sao?
Đỗ Hồng Ngọc: Đó
chính là cách thở bụng. Khi hít vào, ta đẩy cơ hoành xuống càng sâu càng tốt,
xuống tận huyệt “đan điền”. Huyệt đan điền nằm dưới rún ba lóng tay, khoảng
4cm. Đan là thuốc, điền là ruộng. Đan điền là ruộng thuốc. Có nghĩa là “linh
đan diệu dược” nằm ở đó. Người xưa coi thở bụng là phương pháp luyện công tốt
nhất, được sử dụng trong võ thuật và phép tu tiên để trường sinh bất lão. Thực
ra như ta biết cơ hoành là một cơ lớn, rất mạnh, vắt ngang (hoành) giữa bụng và
ngực, chịu trách nhiệm chính trong sự hô hấp, di chuyển lên xuống chỉ được tối
đa khoảng 7 cm thôi, chưa quá rún. Nhưng khi ráng hết sức thở sâu ta tưởng tượng
như khí đã di chuyển đến tận huyệt đan điền. Huyệt đan điền còn gọi là “khí hải”
(biển khí) là vậy. Nhưng, cần để ý, nếu ráng sức thở sâu quá lâu ta sẽ dễ bị
chóng mặt, choáng váng. Đừng ráng quá. Cứ thở bụng bình thường thôi, thấy sảng
khoái, dễ chịu là được. Có thể nói phương pháp thở bụng (đưa hơi xuống huyệt
đan điền) tự nó đã có ý nghĩa là một thứ “linh đan diệu dược” dùng để chữa bệnh
và nâng cao sức khỏe. Nếu có thêm “quán niệm hơi thở” nữa ta đã bước vào lãnh vực
thiền Anapanasati rồi vậy. Thực tế khi đi sâu vào thiền, nhu cầu Oxy giảm đáng
kể, hành giả đạt đến tứ thiền (xả niệm thanh tịnh) có thể gần như không cần thở
và hoàn toàn không chú ý đến chuyện thở nữa!
@ Dùng ý dẫn khí đến
những nơi mình muốn có được không? Chẳng hạn đến tận ngón tay, ngón chân, các
khớp đang đau nhức?
Đỗ Hồng Ngọc: Về
sinh học, hệ thống mao mạch trong cơ thể ta dài đến 100.000 km (hai vòng rưỡi
xích đạo quả đất!). Hồng cầu di chuyển chầm chậm trong hệ thống đó mang Oxy đến
từng tế bào trong cơ thể. Mỗi tế bào thực chất là một… sinh vật, chúng hấp thu
Oxy để tạo ra năng lượng mà sử dụng.
Dùng ý dẫn khí là một cách nói, nhấn mạnh khả năng đưa khí
lưu chuyển toàn thân, đến từng tế bào nhờ hệ thống mao mạch này. Hiện tượng viêm
trong y học - sưng, nóng, đỏ, đau - chính là cơ thể đưa máu dồn về nơi có bệnh
để chữa trị, tập trung Oxy nhiều đến đó để tăng cường sản sinh năng lượng tại
chỗ. Ta biết “Ý dẫn các pháp”, nên ở đây có thể tin được là dùng ý dẫn khí đến
tận nơi cần thiết, những vùng đang đau nhức. Ở đây, nếu chiêm nghiệm được phần
sâu sắc hơn như duyên sinh, không, vô ngã… sẽ càng thấy hiệu quả rõ ràng hơn.
@ Tôi học cách thở âm
và thở dương. Thở dương là đưa hơi qua mũi, theo nhâm mạch xuống đan điền, hậu
môn, rồi nhíu hậu môn lại; thở âm là đưa hơi lên đỉnh đầu, theo đốc mạch đến hậu
môn, nhíu hậu môn lại… để chữa trị các trạng thái âm và dương của thân tâm đúng
không?
Đỗ Hồng Ngọc: Có
lẽ bí quyết nằm ở chỗ “nhíu hậu môn”.!Những thứ khác thực chất vẫn là thở bụng,
thở sâu xuống huyệt đan điền và dõi theo hơi thở, khi thì dõi theo ở phía trước
(nhâm mạch) khi thì dõi theo ở phía sau (đốc mạch). Ta biết một khi vỏ não tập
trung vào điều này thì không thể cùng lúc tập trung vào điều khác. Hai người
gây gổ sắp đánh nhau mà nghe kêu cháy nhà hay động đất sợ quá bỏ chạy thì quên
chuyện đánh nhau ngay. Cái “sợ” đã thay chỗ cho cái “giận” ở vỏ não. Một người ở
trạng thái buồn bã (âm) hay kích động
(dương) mà biết tập trung vào hơi thở sâu, lại tập trung vào chuyện “nhíu hậu
môn” thì “công tắc” đã chuyển sang hướng khác ở vỏ não, nhờ đó mà chữa được
các trạng thái “âm dương” là vậy. Thử “nhíu hậu môn” xem nhé.
@ Tôi không phải là một
doanh nhân, cũng không là một công chức. Từ khi thất nghiệp đến giờ, dù không
làm gì nhiều tôi vẫn bị stress. Tôi nghĩ thiền không chỉ cho những người bận rộn
mà cho cả những người như tôi, bị rối trí vì không có việc gì làm cả.
Đỗ Hồng Ngọc: Thất
nghiệp là một trong những nguyên nhân gây stress trầm trọng nhất. Bạn nên thiền để giải stress, cho tâm được
an, sức khỏe được bền bỉ, ổn định và tranh thủ thời gian “thất nghiệp” này rèn
luyện kỹ năng đang có hoặc tự học thêm một kỹ năng mới, nhờ đó, dễ tìm việc làm
sau này hơn. “Nhẫn nhục” và “tinh tấn” là những đức tính cần thiết của người tập
thiền bạn ạ.
@ Khi thực hành thiền,
có phải kiêng cữ chuyện quan hệ vợ chồng không? Bụng tôi hơi bự, liệu ngồi thiền
có làm bự hơn không?
Đỗ Hồng Ngọc: Các
vị tu sĩ xuất gia mới phải “kiêng cữ” chứ. Còn ta thực tập thiền để có sức khỏe,
dẻo dai, để nâng cao “chất lượng cuộc sống” mà!
Bụng bự đâu mắc mớ gì tới thiền. Bụng bự thường do bia rượu, ít tập thể
dục, ít vận động và ăn quá nhiều dầu mỡ, chất béo! Trái lại, nhờ thiền tập, dần
dần sẽ ăn uống đơn giản hơn và nhờ đó giảm bụng bự!
@ Giờ nào thực hành
thiền tốt nhất? Khi thực tập thiền thì hít vào bằng mũi thở ra bằng miệng hay
hít vào và thở ra đều bằng mũi? Để tới đích mau lẹ thì chỉ cần thực tập theo
sách hay vừa thực tập vừa nghiên cứu kinh sách?
Đỗ Hồng Ngọc: Giờ
nào thuận tiện thì đó là giờ tốt nhất cho ta. Có người thiền vào buổi sớm, buổi
trưa, có người giữa đêm khuya và có người vào buổi tối, trước khi đi ngủ. Có
người thực hành cả 3 “thời”, nghĩa là cả 3 buổi như thế. Không cần theo một lịch
trình cứng nhắc. Mỗi người có điều kiện riêng, giờ giấc riêng. Chỉ nắm lấy
nguyên tắc chung thôi rồi áp dụng cho phù hợp với mình là được. Đừng để bị gò
bó thúc bách, căng thẳng không nên. Tuy vậy, nếu tìm được một thời điểm phù hợp
thì cố gắng duy trì để thành một thói quen, tới giờ đó mà không “thiền” thì thấy
thiếu, thấy ghiền, thấy nhớ, vậy là tốt.
Thở dĩ nhiên phải bằng mũi chứ! Mũi làm ra để thở mà. Ở mũi
có hệ thống mao mạch dày đặc để sưởi ấm không khí, có lông mũi để chặn bụi bặm…
Chỉ khi nào hai mũi bị nghẹt cả thì đành thở bằng miệng chứ sao! Những khi leo
cầu thang, chạy bộ… thì cũng phải thở bằng miệng ( Bài vè thở bụng có câu Bình
thường qua mũi/ Khi gấp qua mồm là vậy!).
Không có chuyện “tới đích mau lẹ” ở đây! Tới đích mau lẹ là
tới đâu? Tới để làm gì? Nôn nóng chính là yếu tố thất bại trong thiền tập. Nghiền
ngẫm, nghiên cứu kinh sách là điều rất cần thiết để ta có cái nhìn, cái thấy
đúng, đặc biệt cần thiết trong thiền quán (vipassana). Nhưng kinh sách mênh
mông, đọc phải có chọn lọc để tránh trở thành cái “đẫy sách”, tránh thành kẻ
“cuồng thư”. Cái chính ở thiền tập là thực hành chớ không phải ngàn chương khảo
luận để trở thành “hí luận”. “Văn tư tu” là cách học Phật: văn là nghe, là đọc;
tư là suy nghĩ, nghiền ngẫm và tu là thực hành, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn...
@ Người ta nói thiền
không đúng cách sẽ bị “tẩu hoả nhập ma”?
Đỗ Hồng Ngọc: “Tẩu
hỏa nhập ma” nói lên việc tập không đúng cách, hoặc quá nôn nóng của người thiền
tập gây tai biến đáng tiếc. Chẳng hạn khi ta ráng sức thở nhanh quá, sâu
quá, tích tụ khí Oxy hoặc Carbonic nhiều quá thì thay vì dễ chịu, sảng
khoái, sẽ thấy bị chóng mặt, choáng váng, có thể ngất đi! Cũng có trường hợp bị
các tai biến khác trầm trọng hơn. Với phương pháp “quán niệm hơi thở” thì nhờ
tính khoa học, sinh y học của nó, có thể an tâm trong thực hành. Thiền là một
phương pháp tịnh, tự mình mình biết, tự mình mình hay, không phải như tập thể lực
hay chơi thể thao, có kế hoạch và chỉ tiêu phấn đấu. Không bao giờ nên ganh
đua, thi đua để lập thành tích này nọ
trong “thiền”.
@ Tôi thử áp dụng
cách thở bụng theo bác sĩ hướng dẫn trên báo thì thấy có kết quả, ít ra là khi
bà xã nhà tôi nói dai, nói dài, nhờ thở bụng mà tôi… không còn thấy mệt như
xưa! Nhưng thở sao cho “êm chậm sâu đều” thì làm không được? Còn “thả lỏng” là
sao? Xin nói rõ thêm…
Đỗ Hồng Ngọc: Êm,
chậm, sâu, đều là chuyện không dễ. Phải từ từ mới được. Đừng nóng vội. Như đã
nói, phải chừng 6 tháng mới quen, mới thành phản xạ thở bụng. Mới tập thế nào
nó cũng “nhộn nhạo” vì chưa quen, khó chịu! Cứ tự nhiên. Bình thường giai đoạn thở
ra bao giờ cũng dài hơn giai đoạn thở vào. Các phương pháp khí công dạy nhiều
cách thở, nào hai thì, ba thì, bốn thì, nào nín hơi, ém hơi… rất phức tạp, nhất
là đối với người có tuổi. Ta tập thở theo sinh lý hô hấp để nâng cao sức khỏe
chớ không phải để luyện “cửu âm chân kinh”! Thở êm là thở không có tiếng
phì phò phì phèo như kiểu tập thể dục, quơ tay, quơ chân thế thôi. Còn thở chậm
mà sâu thì rõ ràng lợi hơn thở nhanh mà cạn. Để ý xem, khi ta vui vẻ, bình
tĩnh, ta thấy ta luôn thở nhẹ nhàng, chậm rãi, thoải mái. Còn khi ta có chuyện
bực mình, căng thẳng hay sợ hãi, lo lắng… ta đều thở nhanh mà cạn, thở cà giựt,
thở cà hước…! Do vậy nếu ta tập trung chú ý vào thở bụng, theo dõi,
quan sát hơi thở vào ra thế nào, ta sẽ bớt căng thẳng, và nhờ đó, hơi thở cũng
sẽ chậm lại và sâu hơn. Tóm lại, lúc mới tập thở bụng, không cần phải “êm, chậm,
sâu, đều” chi cả đâu!
Trái lại, “Thả lỏng” toàn thân là một yếu tố rất quan trọng.
Thả lỏng là không để thân thể căng cứng, các cơ bắp không bị gồng lên. Như vậy,
cả thân thể đều được nghỉ ngơi, trừ cái bụng phình ra xẹp vào thôi! Bình
thường, hệ cơ bắp của ta luôn có độ căng gọi là trương lực cơ (tonus musculaire)
tiêu tốn rất nhiều năng lượng. Thả lỏng là buông xả, là làm cho toàn thân dịu lại.
Khi cơ thể đã chùng xuống, đã giãn cơ, tức đã giảm tiêu hao năng lượng một cách
đáng kể rồi. Trước khi bước vào buổi thiền tập cần thả lỏng toàn thân và hít thở
sâu vài ba hơi. Sau buổi thiền tập cũng phải từng bước hít thở nhẹ nhàng và từ
từ duỗi tay chân để trở lại trạng thái ban đầu. Không nên hấp tấp, vụt chạc.
@ Thời gian tập bao
nhiêu là đủ? Ngày phải tập mấy lần?
Đỗ Hồng Ngọc: Như
đã nói, tùy mỗi người. Có người mỗi ngày tập một lần vào buổi sáng, có người buổi
trưa hay buổi tối. Có người thiền cả 3 thời như vậy, thậm chí chọn “giờ tí canh
ba”! Lúc mới tập, nên ít ít thôi, đừng gắng
quá dễ mệt, dễ chán, tê tay chân… khi quen dần sẽ kéo dài thêm, nhưng trung
bình chừng 30-45 phút cũng đủ. Các vị tu sĩ xuất gia thì khác. Chương trình tùy
mỗi chùa, thường thiền vào giờ khuya, ngồi hai ba tiếng đồng hồ. Nhiều nơi mỗi
người còn phải ngồi trong mùng để tránh muỗi đốt. Có vị Thầy cho biết đã ngồi
thiền 6 tiếng. Cũng có những vị Thầy “thiền định” suốt cả tuần khi nhập thất.
Tóm lại, với thiền “quán niệm hơi thở” nhằm tăng cường sức khỏe, nâng cao sức
khỏe, cải thiện chất lượng cuộc sống nói đây thì ở đâu và lúc nào cũng được cả
vì ở đâu và lúc nào mà chẳng phải thở? Có khi giữa hai buổi họp, giữa lúc đợi
xe, trễ chuyến bay hoặc giữa giờ ra chơi với 5-10 phút cũng tốt rồi!
@ Với tôi thì khi nằm
tôi thở thoải mái hơn khi ngồi. Vậy có tốt hay chăng? Và thiền ngồi mình để tay
lên đầu gối và hai chân xếp bằng song song với nhau vì tôi không thể ngồi kiết
già bán già được.
Đỗ Hồng Ngọc: Thuận
theo cơ địa của mình là tốt hơn cả. Nằm thở bụng cũng tốt quá đi chứ! Đặt tay
lên bụng, ngay trên rún, mỗi khi hít vào thấy tay nhô lên, khi thở ra thấy tay
xẹp xuống là được. Khi quen, không cần phải đặt tay lên bụng như vậy nữa. Bụng
sẽ tự động phình lên xẹp xuống đều đều theo hơi thở. Lúc đó, đặt tâm vào hơi thở
sẽ dần dần thấy những “chuyển biến” ở thân tâm. Xưa có vị thiền sư bảo Thiền là
“phình xẹp, phình xẹp, phình xẹp…” là ý vậy. Cũng có một câu chuyện thiền thú vị: Một thiền
sư cùng đệ tử đang bơi thuyền dạo chơi trên sông. Đệ tử theo thầy đã lâu vẫn
chưa biết thiền là gì bèn hỏi: Thưa thầy, thiền là gì ạ? Thiền sư ngay tức khắc
lật úp chiếc thuyền khiến đệ tử loi ngoi trong nước gần chết đuối, thầy vớt lên
bảo: Đó là Thiền đó!
Bài học hay quá chớ! Thiền chính là… thở và không phải bận
tâm đến bất cứ chuyện gì khác! Ngay lúc thuyền bị úp, vị đệ tử kia chỉ có mỗi
việc là tìm cách... thở và không nghĩ gì khác hơn! Dĩ nhiên câu chuyện còn hàm
chứa nhiều ý bên trong “không thể nghĩ bàn”.
Krishnamurti từng nói: cái gì có định nghĩa thì đều thiếu sót.
Còn ngồi thì kiểu nào thuận tiện cũng là được cả. Người Tây
phương thường ngồi thiền trên một cái ghế thấp. Người Tây Tạng ngồi xếp bằng,
hai chân song song. Người Nhật quỳ trên gối. Hai tay buông lỏng là được, có thể
đặt trên đùi, có thể xếp chồng lên nhau.
@ Có mối liên hệ nào
giữa thiền và sinh lý (tình dục) con người không? Tập thiền về lâu dài có giúp
người ta cải thiện về chuyện riêng tư hay không?
Đỗ Hồng Ngọc: Đời
sống đầy căng thẳng, lo âu, sợ hãi… chính là nguyên nhân làm cho kích thích tố
sinh dục DHEA giảm sút đi, đưa đến tình trạng “yếu sinh lý”, “liệt dương”,
“lãnh cảm”… phải cậy nhờ tới thuốc men này nọ… Thiền là cách giải stress tốt nhất
nên có thể sẽ giúp cải thiện được “chuyện riêng tư” lắm đó chứ sao không? Như
đã nói, thiền giúp thân tâm an lạc, sức khỏe dẻo dai, trí huệ sáng suốt, không
bị “tham sân si” lôi cuốn…. chẳng phải có ích lắm sao?