Nhà thơ Ngọc Lan, vốn
là một giáo viên lâu năm ở thành phố Vũng Tầu, nhà lại ở ngay chân núi Lớn nữa
nên biết khá kỹ về những dàn pháo cổ đã được xây dựng từ thời nhà Nguyễn đến
nay. Chị nhớ chính xác, vào ngày 10-2-1859, quan quân nhà Nguyễn đã khai hỏa những
khẩu súng thần công, đặt ở pháo đài Phước Thắng, trên cao khoảng 30m gần bãi
Trước, bắn vào chiến thuyền của liên quân Pháp và Tây Ban Nha, trên đường vào
xâm lược Nam Kỳ.Trận pháo kích đầu tiên trong lịch sử chống quân xâm lược ngày
đó được tiếp nối sau này khi giặc Pháp và Nhật thay nhau xây dựng và chiếm giữ
trận địa pháo trên hai ngọn núi của thành phố...
TIẾNG GÀ GÁY VANG BIỂN
SÓNG
VƯƠNG TÂM
Người dân Vũng Tầu tự
hào với những bãi biển của mình, trong xanh và tình tứ cùng với những đợt sóng
dạt dào, ôm lấy bờ cát trắng. Tôi lững
thững trên bờ cát, theo chân những con dã tràng mải mê se cát, trong buổi sớm
còn bảng lảng sương bay, thì bỗng giật mình vì có tiếng gà đâu gáy vang. Tôi đã
ở chân ngọn núi Lớn lúc nào không hay. Con đường nhỏ ngoằn ngoèo, hoang vu dụ
tôi như một kẻ bị ma ám. Cứ thế tôi đi lên theo những cánh bướm trắng chập chờn
trước mặt…
Thiêng
liêng bờ cõi biển quê
Lại một tiếng gà lảnh lót chói chang.
Tôi sững người ngước lên trên đỉnh cao. Đó là Hồ Mây, nơi người ta đào một cái
hồ theo câu chuyện cổ tích con cá vàng ở ngọn núi Tao Phùng này. Tiếng gà lấp lánh
nghe như rất gần thôi. Tôi men theo một lối rẽ khoảng vài chục mét, thì nghe thấy
tiếng vỗ cánh của những con gà trống. Càng tò mò hơn tôi leo lên một con dốc nhỏ.
Một khoảng trời mở òa trước mắt. Hai con gà trống đang đậu trên nòng khẩu súng
đại bác trên lưng núi. Chúng táo tác vỗ cánh bay đi để lại cho tôi một cảm giác
bất ngờ với những khẩu pháo lớn nghếch nòng về phía biển. Thì ra đây là bãi
pháo cổ ở trên độ cao 100m, đã đánh dấu nhiều âm hưởng tráng ca một thuở của
người dân Vũng Tầu, trong cuộc kháng chiến chống giặc Pháp, Nhật và Mỹ sau này.
Tôi vội gọi cho nhà thơ Huỳnh Ngọc Lan ở
Vũng Tầu, người đã từng kể cho tôi nghe những câu chuyện về 23 khẩu pháo trên
hai ngọn núi Lớn và núi Nhỏ. Tôi khoe mình đang đứng trước một dàn pháo đầu
tiên như một phát hiện mới lạ ở Vũng Tầu. Nhà thơ Ngọc Lan, vốn là một giáo
viên lâu năm ở thành phố Vũng Tầu, nhà lại ở ngay chân núi Lớn nữa nên biết khá
kỹ về những dàn pháo cổ đã được xây dựng từ thời nhà Nguyễn đến nay. Chị nhớ
chính xác, vào ngày 10-2-1859, quan quân nhà Nguyễn đã khai hỏa những khẩu súng
thần công, đặt ở pháo đài Phước Thắng, trên cao khoảng 30m gần bãi Trước, bắn
vào chiến thuyền của liên quân Pháp và Tây Ban Nha, trên đường vào xâm lược Nam
Kỳ.Trận pháo kích đầu tiên trong lịch sử chống quân xâm lược ngày đó được tiếp
nối sau này khi giặc Pháp và Nhật thay nhau xây dựng và chiếm giữ trận địa pháo
trên hai ngọn núi của thành phố.
Những hầm pháo và thủy lôi mà giặc Pháp
đã kỳ công củng cố và xây dựng suốt 15 năm, từ 1885 đến hết thế kỷ thứ 19 mới
hoàn thành. Đây là những pháo đài kiên cố ở trên cao khoảng 100m, bao quát và
kiểm soát toàn bộ miền biển đông nam bộ, án ngữ con đường biển Cần Giờ đi vào
Sài Gòn. Vậy mà nhiều lần quân và dân của Bà Rịa-Vũng Tầu, trải suốt nhiều cuộc
tấn công đã từng làm tan tác kẻ địch, cướp lại hơn 50 quả thủy lôi, để chế tác
vũ khí cho lực lượng kháng chiến. Nhiều kho đạn dược bị phá hủy và trận địa
trên hai ngọn núi Lớn và Nhỏ đã ghi dấu những chiến công của quân và dân Vũng Tầu
vang danh một thuở. Hiện nhiều khâu trọng pháo vẫn được giữ ở vị trí cũ, và một
số đã được đưa về trưng bày tại Bạch Dinh. Một số chuyên gia nói cho dù đã trải
qua hơn trăm năm, hầu hết những khẩu pháo này vẫn bắn được, chứ không bị hoen rỉ
theo thời gian. Nhà thơ Ngọc Lan còn kể, cách đây không lâu và những dịp khai hội
du lịch hay Festival Biển, thành phố đã cho làm lễ bắn súng thần công triều
Nguyễn được tái hiện, với những tiếng pháo ầm vang trên sóng biển, để nhắc nhở
cho con cháu nhớ đến những chiến công của ông cha một thời, trong cuộc chiến giữ
yên cõi bờ thiêng liêng Tổ quốc ta.
Sự
lựa chọn bất ngờ
Lần này ra Vũng Tầu, tôi còn được may mắn
gặp anh Trần Hợp Minh, một huấn luyện viên quần vợt cho các bạn trẻ ở thành phố
Vũng Tầu và ở quanh khu đô thị mới Chí Linh. Anh cho tôi hai sự lựa chọn để biết
có một hình ảnh Vũng Tầu khác lạ. Một là gặp đại gia Lê Ân, người nổi tiếng ở
Vũng Tầu vừa mua chiếc giường 6 tỉ đồng cho cô vợ thứ 6, kém mình 55 tuổi. Hai
là gặp một ca sĩ tha hương từ ngoài bắc vào chuyên hát những bài hát về Hà Nội,
và ca khúc của Trịnh Công Sơn, trong một quán cà phê. Chẳng hề đắn đo, tôi chọn
ngay chàng ca sĩ tha hương nọ, với một cảm xúc bất ngờ, bởi có lẽ chính tôi là
người Hà Nội, muốn được chia sẻ sự ấm áp từ một tâm hồn ở nơi xa xôi. Anh Minh
mỉm cười và hiểu ý, bởi anh cũng là một người con của Hà Nội cổ, nhà ở phố Phan
Đình Phùng, lang bạt tứ xứ rồi về định cư tại đất biển này. Anh sống cô đơn
trong một căn hộ với cây đàn Piano, cùng với giá vẽ mà những lúc rảnh rỗi lại
trút những nỗi niềm xa quê, bằng những sắc mầu nhớ nhung.
Theo hẹn, tôi đến quán cà phê Toàn Nguyễn,
trên đường phố Thống Nhất, trong những sợi âm thanh ghi ta thả hồn bay bổng.
Đón chúng tôi bằng ca khúc “Có phải em mùa thu Hà Nội” của nhạc sĩ Trần Quang Lộc.
Trong ánh đèn vàng, nghệ sĩ Toàn Nguyễn (sinh năm 1958, tên thật là Nguyễn Hồng
Toàn) hiện lên với những góc cạnh khác lạ. Gương mặt chữ điền ghồ ghề, cùng búi
tóc dài đuôi ngựa, đầy phong sương. Anh mỉm cười như một lời chào thầm kín và cất
giọng hát. Giọng anh trôi trên những nốt nhạc tỉa ngọt ngào và ấm áp như lời ru
vậy. Hình như anh ru anh, hay ru tôi: “Thôi
thì có em đời ta hy vọng. Thôi thì có em sương khói…”.
Lúc này mấy người bạn lắng nghe, và họ
cũng như tôi khẽ thầm hát cùng anh, bằng con tim của mình. Chợt anh Minh ngồi
bên tôi thì thầm kể chuyện. Toàn Nguyễn đã lang thang hàng chục năm xa quê, tìm
kế sinh nhai bằng tiếng hát của mình. Giọng hát mộc, với âm sắc Bariton trầm ấm,
đầy sức cuốn hút và hồn nhiên như tấm lòng anh vậy. Không một chút kỹ thuật, giọng
anh vang lên từ âm sắc của lời tự sự làm thổn thức con tim người nghe.
Toàn Nguyễn rời đất biển Hải Phòng từ
thuở thiếu thời và trôi nổi trên mọi miền viễn dương xa xôi. Những năm tháng
lênh đênh trên biển, Toàn Nguyễn trút mọi nỗi niềm tha hương với cây đàn ghi
ta. Rồi anh hát, hồn nhiên với tất cả sự an ủi vỗ về nỗi cô đơn trên biển vắng.
Toàn Nguyễn nhớ có lúc hàng chục thủy thủ ngồi vây lấy anh lúc nào không biết nữa.
Anh hát như nhập đồng vậy. Tất cả ngồi im lặng bên anh trong nỗi nhớ. Trước mắt
họ chỉ còn những gương mặt thân yêu, vợ con, cha mẹ, anh em cùng lũy tre làng
quen thuộc. Tiếng hát anh làm vợi đi những day dứt trong họ cho dù ai cũng biết,
ngày mai biển lại thăm thẳm cô đơn, vời vợi xa quê.
Thế rồi năm tháng trôi đi, đầy sự mệt mỏi
trên đường đời, Toàn Nguyễn lên bờ với tài sản duy nhất là cây ghi ta gỗ cũ kỹ.
Anh bắt đầu sự nghiệp của mình với quán âm nhạc “Hà Nội và tôi” ở tại khu vực Hồ
con Rùa quận 3 thành phố Hồ Chí Minh, từ năm 1994. Anh xa lánh thị trường thời
thượng chỉ âm thầm hát những bài hát về Hà Nội, nhất là những ca khúc đầy trăn
trở của nhạc sĩ Phú Quang và nhiều nỗi niềm thân phận của Trịnh Công Sơn. Tâm hồn tha hương có sức ám ảnh của Toàn Nguyễn
đã thu hút lòng người. Khán giả đến với anh như muốn được chia sẻ, an ủi những điều
ẩn giấu trong con tim. Đêm nào, anh cũng hát tới 30 bài theo yêu cầu của người
nghe, mà không biết mệt. Càng hát, giọng anh lại càng dầy ấm tràn đầy ký ức được
bảy tỏ, chia sẻ, với mọi người. Đúng như lời ca cần một tấm lòng chỉ để gió bay
đi…
Và rồi như một định mệnh anh đã được một
nỗi cô đơn khác bù đắp. Đó là một câu chuyện như được ông trời sắp đặt vậy. Vào
năm 2009, ca sĩ trẻ Thúy Hồng người Hà Nội, 22 tuổi, tốt nghiệp khoa thanh nhạc,
Trường Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội, cũng lang thang trên con đường lập nghiệp,
đã gặp anh. Họ thành vợ chồng, rồi đìu kíu nhau ra Vũng Tầu, mở quán cà phê ca
nhạc “Toàn Nguyễn”, từ 2011 cho đến nay. Thúy Hồng bước ra hát cùng chồng. Họ tạm
biệt chúng tôi bằng ca khúc “Hà Nội ngày tháng cũ”. Giọng hát Thúy Hồng như có
men say, nhừa nhựa đê mê, trôi trên nền âm thanh mộc mạc, truyển cảm của chồng.
Họ mơ về những ngày tháng cũ, với những kỷ niệm Hà Nội không bao giờ phôi phai,
trên con đường tha hương…
Mơ
trên “Hồ Mây”
Hôm sau tôi cùng anh Hợp Minh mua vé đi
cáp treo lên đỉnh Núi Lớn. Đó là một khu du lịch sinh thái mới được khai thác của
Vũng Tầu, có cái tên là Hồ Mây. Đây là công trình mới và độc đáo nhất nước, và
trở thành niềm tự hào của thành phố. Độc đáo bởi lẽ, đây là hồ nước lớn được
đào trên đỉnh núi, cao hơn 200m. Anh Minh kể, dưới chân núi là sóng biển bao
la, còn trên đỉnh núi là một “biển hồ” lãng mạn, với câu chuyện cổ về một võ tướng
của anh em nhà Tây Sơn, Nguyễn Huệ, đã đánh chết con hổ để cứu một cô gái. Sau
này người ông của cô gái đã gả cháu gái mình cho chàng dũng sĩ kia. Nên xưa,
núi Lớn còn được gọi cái tên Tương Kỳ là vì thế; cũng giống như núi Nhỏ còn được
gọi là núi Tao Phùng, được gắn với câu chuyện tình con cá vàng (hóa thân của
nàng công chúa, con vua Thủy tề) với người thanh niên thuyền chài.
Tôi đang mải nghe kể chuyện thì bất ngờ
lại nghe thấy tiếng gà gáy mênh mông trên cánh rừng nguyên sinh. Cùng với đó là
vườn hoa Cẩm tú cầu tím ngan ngát chớm nở bên những dàn hoa giấy đỏ rực. Cảm
giác xao xuyến trong tôi thật lạ lùng. khi thấy tiếng gà lại gáy vút lên không
trung. Đứng trên cành cây chúng hót báo bình minh lên vàng rộm cả một khu rừng.
Đúng lúc ấy, một giai điệu quen thuộc rộn ràng, với lời ca của bài: “Vũng Tầu
biển hát”. Tôi ngỡ như tiếng gà gáy gọi bình minh là tiếng báo hiệu của lời ca:
“Ai qua nơi đây có thấy tiếng ca. Cuộc đời
vui mới sáng trong lòng ta. Chung tay, chung tay xây quê hương này. Vũng Tầu biển
hát sóng dâng triều lên…”. Tôi nghe như lòng mình đang hát cùng với sóng biển,
trong tiếng gà gáy rực sáng cả vùng trời.