Nhà văn Nguyễn Hồ nhấn mạnh: “Đọc lại Trang Thế Hy
trong dịp sinh nhật lần thứ 90 của ông, tôi phát hiện văn chương ông có một điều
nhất quán trong suốt bảy mươi năm cầm bút, đó là viết về cái gì nhỏ nhất
nhưng vì cái lớn lao nhất, cái chân - thiện - mỹ. Hầu như tất cả truyện của ông
đều có một cách giải quyết những mâu thuẫn, xung đột cá nhân trong đời thường
cũng như trong đấu tranh, đó là nhìn lên, nhìn cái lớn lao, cái chí nhân, chí
nghĩa và cái đẹp của tâm hồn để ở đời. Bài thơ cuộc đời ông bao giờ cũng được
thêu dệt từ những cái giản dị thậm chí là tầm thường nhất: “Thứ khoai sùng lượm mót. Mà sao ngọt ơi là
ngọt”, bởi đó là cuộc đời, biết đắng là đắng, biết ngọt là ngọt, ngọt hay đắng
trong những hoàn cảnh khác nhau đều là do tự ở lòng mình”.
TRANG THẾ HY VÀ BÀI THƠ CUỘC ĐỜI
NGUYỄN HỒ
Vầng
trăng bên kia sông là truyện ngắn đầu tiên tôi được đọc
của ông. Nói cho đúng là tôi được học văn ông từ truyện ngắn ấy. Trong giờ văn,
thầy giáo Hiền (Nguyễn Trung Tín), cầm tờ Nhân loại giới thiệu
truyện ngắn trên cho cả lớp đệ lục trung học tư thục Mỹ Lồng (Giồng Trôm, Bến
Tre) trong một ngày tháng bảy cách đây gần năm mươi năm. Thời gian đó, sông Bến
Hải, dòng sông giới tuyến tạm thời đã trở thành vết dao chém ngang mình đất nước.
Đọc truyện của ông, thầy trò chúng tôi liên tưởng tới bên kia con sông ấy có cả
một vầng trăng. Từ đó về sau, tôi đọc tất cả những gì khi biết đó là của Trang
Thế Hy - Văn Phụng Mỹ. Nắng đẹp miền
quê ngoại, Hai người tàn tật, Giả đò yêu, Bức tranh không bán, Áo lụa giồng, Mối
tình bên rạch Giồng Chanh… là những truyện ông viết sau kháng chiến chống
Pháp ngay tại Sài Gòn đăng trên Nhân loại, Bách khoa, Vui sống, Ngày mới và
một số tờ báo khác. Ông là một trong những người cùng thời với Dương Tử Giang,
Lý Văn Sâm, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Tiêu Kim Thuỷ, Truy Phong, Kiên Giang, Lê
Vĩnh Hoà, Viễn Phương… đã tạo ra một thứ văn chương khác lạ ở Sài Gòn: đa giọng,
đa chiều, một thứ văn chương tranh đấu tinh tế và thuyết phục. Dù số lượng chưa
áp đảo trên văn đàn nhưng dòng văn chương ấy sớm tạo nên một trào lưu văn học đặc
biệt ở Sài Gòn.
Cuối năm 1964, trong rừng chiến khu miền Đông Nam
bộ, báo Giải phóng, cơ quan trung ương của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền
Nam ra đời, tôi được đọc một truyện rất ngắn của Trang Thế Hy:Nhìn lên. Văn học
tuyên truyền đánh giặc trước đó trên báo chí vùng giải phóng chưa nhiều những
giọng điệụ mềm mại, thông thái và thuyết phục nhờ sức mạnh truyền cảm của văn
chương. Ông cũng dùng chữ nghĩa để vận động cách mạng, nhưng sao mà tinh tế, đọc
thấy thấm thía đến ruột gan.
Những năm ở rừng, vào những ngày chủ nhật, tôi thường
được ông nhắn qua Lãng Bạc (mật danh của tiểu ban Văn nghệ thuộc ban Tuyên huấn
Trung ương cục miền Nam) câu cá, hái rau, tái chế lại cơm hẩm, khô mục của chị
nuôi thành thực đơn đồng quê Bến Tre. Món tủ là cá suối chiên hoặc kho tiêu ăn
với canh chua lá bứa có nước mắm và trái ớt hiểm xanh. Ông và nhà văn Thuỷ Thủ,
tác giả Chiếc guốc xinh xinh ở
chung mái lá trung quân bên bờ suối, lui cui, lặng lẽ trong khói lửa chiến
tranh. Một hôm, trước khi ra về, ông đưa cho tôi truyện ngắn ông vừa viết: Hột bụi. Nét chữ bay bướm mà rõ ràng và
thận trọng, từng nét đều tăm tắp suốt tám trang giấy tập học trò cuốn hút bắt
tôi phải đọc một mạch. Hột bụi, khúc
ca bi tráng về những con người chân đất được viết trong khung cảnh nên thơ của
khu rừng bên suối của tiểu ban văn nghệ Lãng Bạc. Những đêm trăng, tiếng đàn,
tiếng hát của các cô văn công xinh đẹp chảy theo dòng suối rợp bóng bằng lăng
tím. Đêm đêm bên ngọn đèn dầu nhỏ như lân tinh đom đóm, các nhà văn đang viết
hùng ca. Anh Đức với Hòn Đất,
Thuỷ Thủ viết Đất, Giang Nam với Quê hương, Ngô Y Linh với kịch Đâu có giặc là ta cứ đi. Rồi B52 trút xuống
khu đại ngàn những đợt bom tận thế, người ngã xuống đầu tiên là chủ tịch hội
Văn nghệ giải phóng, soạn giả cải lương Trần Hữu Trang, tác giả Đời cô Lựu, một nhân cách lớn của nghệ
thuật cải lương kinh điển. Cái bi tráng không chỉ riêng của cuộc đời mà giờ đã
nhắm thẳng vào nghệ sĩ. Tôi chờ Hột
bụi in trên Văn nghệ Giải phóng nhưng chỉ gặp Quê hương thứ hai của người du kích, Chuyện
nhỏ trên đường dây và Bên miệng hố bom đìa, chờ cái bi tráng
thì lại nhận được cái trong trẻo, hồn hậu và độc đáo, thôi thì cũng là bù qua
chế lại trong hoàn cảnh đánh giặc.
Thời gian trôi qua, cho đến gần hết chiến tranh tôi
mới phát hiện Hột bụi đã
hoá thân thành Anh Thơm râu rồng.
Sách in, đài đọc, dư luận khen ngợi, trầm trồ, nhưng riêng tôi thì có phần hụt
hẫng, tiếc ngẩn tiếc ngơ khúc ca bi tráng với cái triết lý bình dị về những người
dám hy sinh, coi thường cái chết vì biết mình chết cho ai, vì ai. Nghe đâu, sở
dĩ Hột bụi cũng như nhiều
tác phẩm văn học khác trong chiến tranh không được cất tiếng khóc chào đời trước
khi cam đành trở về cát bụi, là vì người ta bảo nó “chưa phù hợp”. Sau đó thì Hột bụi và Nụ cười của đá của ông bị thất lạc,
thật đáng tiếc.
Trong bốn mươi năm làm người đồng nghiệp bên ông sau Hột bụi,
tôi chưa hề nghe ông phàn nàn, nhắc tới nó (Hột
bụi) nữa. Ông lặng lẽ sống, lặng lẽ viết và cho ra đời những truỵện ngắn đầy
bất ngờ đối với độc giả cũng như làng văn cả nước: Quê hương thứ hai của người du kích, Bên miệng hố bom đìa, Chuyện nhỏ
trên đường dây… trở thành những món đặc sản của văn chương kháng chiến.
Cũng là chuyện về những người chiến sĩ bình thường đó thôi, nhưng những truyện
ngắn của ông vừa lãng mạn vừa thâm trầm. Cứ thế, văn chương của ông phát triển
lặng lẽ, sâu thẳm và lắng đọng, tạo thành sự nghiệp sống mãi với thời gian từ
lúc nào không biết, từ Nắng đẹp miền
quê ngoại cho tới Mưa ấm,
từ Anh Thơm râu rồng cho đến Tiếng khóc và tiếng hát và điểm
ngưng đọng là tập Nợ nước mắt và
những truyện ngắn khác.
Ông viết không nhiều về số lượng, không viết cho thị
hiếu, thời thượng, chỉ viết cho người đọc tri âm và cho chính mình, bất kể quy
luật cung cầu của thị trường chữ nghĩa. Trong đời sống thường ngày cũng thế,
ông không có cuộc sống nào khác ngoài sống với văn chương và nhân thế, viết và
sống đối với ông bao giờ cũng chỉ là một, chỉ có một. Từ căn phòng nhỏ trong
ngôi nhà bảy tầng trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa ở TP.HCM cho đến căn nhà cũ kỹ
liêu xiêu ở ấp 1 xã Hữu Định, giáp thị xã Bến Tre, Trang Thế Hy vẫn sống đạm bạc
và theo đuổi văn chương thuỷ chung, nồng nàn cũng như những ngày ở chiến khu và
chiến trường ác liệt. Ở Củ Chi, nơi ông viết Quê hương thứ hai của người du kích, ông nổi danh là chú Tư bù tọt,
đêm đêm xách đèn dầu soi cóc nhái tăng chất đạm cho bữa ăn. Ở một góc vườn dừa
ven chợ Cái Mít (Giồng Trôm - Bến Tre năm 1968) trong toạ độ pháo bầy, hàng
năm trời, người ta biết đến một “ông già Ba đồng”, có nghĩa là mức tiêu dùng ba
đồng bạc nửa xị rượu mua tại quán bà Năm Gặp ở đầu Giồng Chủ mỗi ngày, khi ngơi
bom pháo. Năm Mậu Thân 1968, trên đường chiến dịch, tôi ghé qua đây thăm ông,
chứng kiến cái cảnh sống “tri túc” của ông mà chạnh lòng. Sáng sớm, cái bồng
lép xẹp của ông được bọc kín bằng vải nylông, trông giống như một trái bí, sẵn
sàng nhận xuống bùn khi chạy càn. Nhà văn chỉ để bên ngoài, trong túi áo bà ba,
tấm vải mùng chừng nửa mét vuông để làm vó bắt tép. Cái vó nhỏ xíu đặt xuống
mương vườn với một chút cám, thế mà cũng dụ được những chú tép bầu tối thiểu đủ
làm ngọt một tô canh mướp non với rau bù ngót. Thế mà cái khu vườn hoang ông tá
túc lúc nào cũng rộn tiếng cười của cánh văn nghệ kháng chiến. Rồi “công nghệ”
sống tri túc, đạm bạc ấy được tiếp tục tại lầu hai cao ốc giữa trung tâm Sài
Gòn, bên mấy chậu khổ qua, một dề rau đắng đất làm lắng dịu cái ồn ã thị thành
để ông có thể nghĩ suy về Nợ nước mắt,
Gió nấm mối, Rác và hoa, Vết thương thứ mười ba, Hai người nhìn mưa dầm..
Đọc lại Trang Thế Hy trong dịp sinh nhật lần thứ 90
của ông, tôi phát hiện văn chương ông có một điều nhất quán trong suốt bảy mươi
năm cầm bút, đó là viết về cái gì nhỏ nhất nhưng vì cái lớn lao nhất, cái chân
- thiện - mỹ. Hầu như tất cả truyện của ông đều có một cách giải quyết những
mâu thuẫn, xung đột cá nhân trong đời thường cũng như trong đấu tranh, đó là
nhìn lên, nhìn cái lớn lao, cái chí nhân, chí nghĩa và cái đẹp của tâm hồn để ở
đời. Bài thơ cuộc đời ông bao giờ cũng được thêu dệt từ những cái giản dị thậm
chí là tầm thường nhất: “Thứ khoai sùng
lượm mót. Mà sao ngọt ơi là ngọt”, bởi đó là cuộc đời, biết đắng là đắng,
biết ngọt là ngọt, ngọt hay đắng trong những hoàn cảnh khác nhau đều là do tự ở
lòng mình.
Giờ đây, ở bên rìa thành phố Bến Tre, nơi giáp
ranh của làng Hữu Định quê ông, công dân nhà văn “đi chỗ khác chơi” là Trang Thế
Hy vẫn tiếp tục cuộc sống thanh bần và thuỷ chung trước sau như một với văn
chương, với bè bạn và với cố nhân. Túp lều nho nhỏ tưởng chừng quá quạnh hiu của
ông từ lâu đã trở thành địa chỉ của giới văn học đến từ Hà Nội - Sài Gòn, từ đồng
bằng sông Cửu Long, những đồng nghiệp trẻ tuổi cũng như vài nhà văn luống tuổi ở
cách xa đất nước nửa vòng trái đất, bao giờ cũng nghĩ đến ông, ghé lại với ông
khi có dịp đến Bến Tre. Đối với chúng tôi, ngày nào được ghé thăm ông, được
nhâm nhi ly rượu đế để nghe ông nói chuyện văn chương thì đó là ngày vui
và hạnh phúc…