Tạp chí Hồn Việt lại có thêm một bút danh mới nhảy
vào cuộc tranh luận: “Ông Trần Tuấn (mà tôi đồ chừng là con giai ông Trần Dần)
lên tiếng, cho tác giả Bích Châu là “ụp mũ” thì cũng không có gì là lạ. Nhưng vấn
đề ông Trần Dần, vấn đề Nhân Văn – Giai Phẩm (NVGP), vấn đề thơ Trần Dần thì phức
tạp hơn, có những cách nhìn khác nhau. Trước hết, những câu thơ mà tác giả Bích
Châu trích ra để đánh giá thơ Trần Dần đó, thì nó là thơ tắc tị, thể hiện
sự bế tắc trong cách nhìn, trong tư tưởng của Trần Dần vào một
thời điểm của đời ông. “Thơ thuộc về mọi người”, nhưng “lời tôi khó hiểu vì tôi
cô đơn” (P. Eluard). Tâm trạng của nhà thơ có chỗ đáng thông cảm, nhưng đem nó
phổ biến, thì người ta chẳng hiểu gì hết, người ta phản ứng. Nó cũng thể hiện sự
ảnh hưởng của chủ nghĩa hình thức phương Tây, tuyệt đối hóa hình thức, ngôn từ,
âm điệu…, từ bỏ nội dung – tư tưởng (mà gần đây chúng ta đọc Tzvetan Todorov – Văn
chương lâm nguy mới thấy cái tác hại của nó, mới thấy phương Tây – mà đại
diện là nhà lý thuyết hàng đầu Todorov – đã nhìn ra vấn đề). Chẳng có gì là “bí
ẩn” như anh Trần Tuấn thần thánh hóa, kỳ bí hóa”.
NHÂN CÓ BÀI BÁO VỀ TRẦN DẦN
NGUYỄN VŨ HỒNG NGỌC
Sau bài báo của tác giả Bích Châu đăng trên Hồn
Việt (số 87, tháng 11-2014) Biến nghịch lý trở thành chân lý!?, báo Tiền
Phong(ngày 16-11-2014) có bài đáp lại của Trần Tuấn: Ụp mũ lên Trần Dần
– Thơ. Thiết nghĩ, việc trao đi đổi lại một vấn đề để tìm ra lẽ phải, sự đồng
thuận là cần thiết, chúng tôi xin góp bàn vài lời.
Ông Trần Tuấn (mà tôi đồ chừng là con giai ông Trần
Dần) lên tiếng, cho tác giả Bích Châu là “ụp mũ” thì cũng không có gì là lạ.
Nhưng vấn đề ông Trần Dần, vấn đề Nhân Văn – Giai Phẩm (NVGP), vấn đề thơ Trần Dần
thì phức tạp hơn, có những cách nhìn khác nhau. Trước hết, những câu thơ mà tác
giả Bích Châu trích ra để đánh giá thơ Trần Dần đó, thì nó là thơ tắc tị,
thể hiện sự bế tắc trong cách nhìn, trong tư tưởng của Trần Dần
vào một thời điểm của đời ông. “Thơ thuộc về mọi người”, nhưng “lời tôi khó hiểu
vì tôi cô đơn” (P. Eluard). Tâm trạng của nhà thơ có chỗ đáng thông cảm, nhưng
đem nó phổ biến, thì người ta chẳng hiểu gì hết, người ta phản ứng. Nó cũng thể
hiện sự ảnh hưởng của chủ nghĩa hình thức phương Tây, tuyệt đối hóa hình thức,
ngôn từ, âm điệu…, từ bỏ nội dung – tư tưởng (mà gần đây chúng ta đọc Tzvetan
Todorov – Văn chương lâm nguy mới thấy cái tác hại của nó, mới thấy
phương Tây – mà đại diện là nhà lý thuyết hàng đầu Todorov – đã nhìn ra vấn đề).
Chẳng có gì là “bí ẩn” như anh Trần Tuấn thần thánh hóa, kỳ bí hóa.
Nhưng về thơ, thì Trần Dần ngoài những bài “tắc tị”
đó ra, còn có những bài khác trong sáng hơn, có giá trị hơn. “Sông có khúc, người
có lúc”, văn chương biểu hiện con người, cũng như vậy.
Ông Trần Dần là một trong những nhân vật chính của vụ
NVGP. Đó là những tiếng nói chống lại chính quyền, sự lãnh đạo, đòi tự do dân
chủ, trước hết cho văn nghệ, “trả văn nghệ về cho văn nghệ”... Điều đó có thể
hiểu và thông cảm. Văn nghệ sỹ nào mà chả muốn tự do thể hiện tâm trạng, chủ kiến
của mình. Chết nỗi, tình hình nước ta lúc đó, ở miền Nam thì cách mạng và kháng
chiến bị tàn sát hàng loạt – “chiến tranh đơn phương” -, ở miền Bắc thì Cải
cách ruộng đất mắc sai lầm, vừa qua chiến tranh lâu dài, kinh tế nghèo nàn, sức
dân mỏi mệt, tâm trạng “hậu chiến”. Tình hình thế giới cũng hết sức phức tạp.
Anh đi đòi tự do cá nhân cho anh thì cũng phải nghĩ đến đại cuộc, đến đất nước.
Bất mãn, phẫn uất…, cuối cùng kêu gọi “biểu tình” chống đối. Thế thì nhà cầm
quyền họ nhân danh toàn cục, nhân danh cuộc chiến đấu của cả dân tộc và nhân
danh cả những nguyên tắc cứng rắn của họ, họ trấn áp. Vả lại cũng chỉ đưa ra
Tòa, xử tù 2 người cầm đầu là Thụy An và Nguyễn Hữu Đang, 2 người hoạt động chống
phá – gián điệp và như ông Nguyễn Hữu Đang nói, ông ta cũng chẳng kêu ca gì.
Nhà cầm quyền hồi đó hành động như thế, cũng là có cân nhắc. Nhưng rồi đáng lẽ
kỷ luật 3 năm, thì kéo dài gần như suốt đời. Rồi coi NVGP như “địch”, căm thù,
mạt sát quá đáng là không đúng. Họ có sai lầm, nhưng đó là những người trong “nội
bộ”, những người tham gia kháng chiến và cách mạng. Ở Sài Gòn, kẻ địch lợi dụng
họ, khoái chí thấy họ nổi lên chống đối, nhưng họ chưa hề là địch. Xử trí sau
NVGP có chỗ đáng bàn. Nhưng đó là chuyện một thời, ta nên nhìn lại, nhưng không
thể khoét sâu vào vết thương hoặc tôn vinh quá đà, quá mức thành thần, thành
thánh… Quy luật Archimed có trong văn chương. Rồi đến đổi mới, bắt đầu có nhiều
người nghĩ lại. Ta nói gác lại quá khứ, hòa hợp dân tộc…, những người này là
anh em đã đồng cam cộng khổ một thời, có sai lầm gì đi nữa cũng nên xóa “kỷ luật”.
Đó là nguồn gốc cái mà PGS Hoàng Ngọc Hiến gọi là “chiêu tuyết” – trao giải thưởng
Nhà nước cho một số tác giả NVGP… Gọi là “chiêu tuyết” e chưa đúng hẳn, vì họ
có sai lầm thật. Nhưng thôi, tình hình bây giờ bao nhiêu chuyện, hơi đâu mà đi
cãi chữ. Khi nhiều người trong Hội Nhà văn làm việc này, cũng là làm với một ý
nghĩ, một động cơ như vậy. Còn lịch sử thì vẫn còn đó, tư liệu vẫn còn đó.
Không nên vì bị động với trào lưu gọi là dân chủ - nhân quyền của Tây hay sự sụp
đổ của Liên Xô, Đông Âu mà khới lên vấn đề đòi xét lại toàn bộ lịch sử!
* * *
Ông Trần Tuấn cũng như báo Tiền Phong mới
chỉ nói về Trần Dần. Bài của Trần Thu Dung (ở Paris) trên báo Tiền Phong ca
ngợi những tác phẩm mà Đà Linh và NXB Đà Nẵng in. Trả lời, tác giả Bích Châu kể
ra 3 tác phẩm, trong đó có cả Bóng đè và Ba người khác.
Có hai tầng nghĩa trong các truyện Vu quy –
Bóng đè
Tầng nghĩa bình thường, nếu đọc lướt qua thì là sex.
Nhưng trả lời phỏng vấn, tác giả của nó nói rằng “tôi không viết truyện
sex”. Mặc dù việc tả làm tình ở đây rất đậm, đôi chỗ dơ dáy, dâm loạn.
Tầng nghĩa thứ hai, tầng nghĩa chính, là chính
trị.
Nhân vật nữ trong Vu quy, 16 tuổi ngủ với đàn
ông, và sau đó với “người đàn ông đượm rát mùi phù sa sông Hồng”, ngủ với
nhiều đàn ông khác, phá thai, rồi với một “người Tàu” – tay “thương nhân”,
“quyền uy”, “lãnh chúa”, “hoàng đế” “toát ra mùi đền đài, lăng tẩm: Uy quyền” ấy
đã nói: “Nếu rời xa tôi, em sẽ chết. Em đang mắc căn bệnh trầm kha, chỉ có
tôi giúp em mới hồi sinh được. Em đang sinh ra để dựa dẫm vào tôi”. Và: “Nắng
biển Đông chết ngoài khơi xa trước mắt ông. Tấm thân tôi cong lên hình chữ S, một
hình chữ S cố phản kháng”. Rõ ràng, đây là ẩn dụ của mối tình Tàu - Việt, một mối
tình “nhục nhã”, “phản bội”, “quì gối”, “phục tùng” v.v... (tr.52), “tự
nguyện quỳ gối trong tư thế của một nô lệ” (chữ dùng trong nguyên tác). Mối
tình với Việt, một Việt kiều, người bị mất “xác ba và chị đã rơi giữa biển
khơi làm mồi cho cá” (tr.56) và “có cực nhọc làm ra bao nhiêu tiền
mang về, bức tường đó cũng không phá bỏ được…” …Như thế là cho rằng ta quì
gối lệ thuộc Tàu, một chuyện xuyên tạc trắng trợn.
Và cuối cùng, là một ngoại kiều Tây phương, người đã
“đầu tư rất nhiều chất xám vào Việt Nam…” đã phạm “trọng tội” ở Âu
châu, có “khuôn mặt Tây phương vô hồn trông đến vài trăm tuổi… từa tựa bức
tượng tôi vẫn thường trông thấy mỗi khi đến cơ quan bố… hàm râu quai nón rậm ri
loen nhoen nhiều vệt trắng… thân hình lạnh giá như xác chết” (tr.76).
Đó là ông Karl (Marx) và hai câu có cái tên này: “Thưa bà Karrl, tối qua
ông bà ngủ ngon chứ ạ” được in nghiêng đậm bất thường để lưu ý
người đọc cái thông điệp gởi đi, cái mật mã của truyện. Đỉnh
cao của bút pháp, cái cay độc của truyện là trong cái đêm “động phòng” với cái
“xác ướp” ấy “chỉ có vùng kín ran rát và bàn tay tôi ướt mềm trong lau
lách. Hai bàn tay bết dính chất ngà trắng lẫn nhiều sợi bạc mà tôi vẫn đủ tỉnh
táo để nhận ra không phải là sợi đàn bà của mình. Trời ơi! Những vệt trắng trên
bộ râu quai nón của người đàn ông” (tr.76). Dùng “Sợi bạc” của râu K.Marx
để đối với “sợi đàn bà”!?
Bóng đè là câu chuyện cô dâu bị bố chồng (đã chết)
hiếp, bị “bóng đè”, và truyện này bạo dâm lộ liễu, còn cái ý chính trị là bị tổ
tiên gốc Tàu hãm hiếp, chèn ép. Dòng sông hủi đánh vào công an (tên Công),
điều tra viên “kiểm tra trí nhớ của con người”, “kiểm thính lương tri đồng
loại”, “thanh lý trí nhớ kẻ khác”, “người lột váy vợ, sờ nắn, ngửi tìm dấu vết
một tội phạm (tr.111) –Dòng sông hủi đề tặng Trần Vũ (ở Paris), người
đã viết Mùa mưa gai sắc tả Nguyễn Huệ bạo dâm với Ngọc Hân,
và anh ta là người điều hành Hợp Lưu ở California, sau Khánh Trường,
một tạp chí được Khánh Trường đánh giá là chống cộng hiệu quả nhất, tạp chí đã
đăng Vu quy trước khi xuất bản ở NXB Đà Nẵng. Có thể do quan hệ này
và bút pháp của truyện, người ta nghi cô gái 28 tuổi ở Hà Nội này chí ít đã được
Trần Vũ hoặc ai đó tiếp sức, “biên tập”, “nhuận sắc”, thậm chí “đội tên”…
Các báo Tiền Phong và nhiều báo nữa đã
đăng bài thông tin theo chiều ca ngợi Bóng đè, Vu quy, ca ngợi Hội thảo giữa
Hà Nội trong “cơn bão” về tác giả và tác phẩm, quảng cáo cho sách và tác giả (cả
hai cuốn sách đều đã bán hết sạch). Rất nhiều nhà văn đã ca ngợi và tỏ lòng
“kính phục”! Nguyên Ngọc lớn tiếng ca ngợi nhiều nhất trên nhiều diễn
đàn rằng tác giả “truyền đến cho chúng ta những nghiền ngẫm sâu thẳm về xã hội,
về con người, về đất nước, thậm chí về số phận dân tộc…”, Nguyên Ngọc đã bắt
được giải tần sóng phát đi từ truyện. Như thế, đây là cuộc “đồng hè hành động”
của xuất bản, báo chí (thậm chí Văn Mới còn có sự kết hợp của VTV1) về
một hiện tượng chính trị - tư tưởng – văn hóa rõ như ban ngày. Có sự kết hợp của
nước ngoài: Hợp lưu, Talawas,… một cách công khai và cố tình, họ đã “nâng
những cung bậc khác nhau của sự phản bội lên thành giá trị” (lời nhà văn Nga
Raxputin) công khai dùng phương tiện truyền thông chính thức làm chuyện “lật đổ”
(từ của một Việt kiều ở Đức). Đây là một việc hết sức bất thường và đáng lo ngại,
tiếp theo không biết bao nhiêu chuyện đã xảy ra hàng chục năm nay trên lĩnh vực
này.
Còn Ba người khác thì tưởng ý kiến của
Bích Châu trích dẫn nhà phê bình Dương Trọng Dật thế cũng đủ rõ. Ba người
khác là một tác phẩm viết về CCRĐ, rất tự nhiên chủ nghĩa, vụn vặt.
Theo ý một nhà văn: “Nói cho ngay, đây là một cuốn sách viết khéo với nhiều cảnh
đời sống động và được “lên hương” bằng yếu tố gợi dục đậm đà. Quả là cái khéo của
bà hàng xén chợ phiên biết bày bán bắt mắt những món hàng xanh xanh đỏ đỏ”...
* * *
Nhà xuất bản Đà Nẵng và Đà Linh, ngoài những cuốn
trên, còn in nhiều cuốn của F. Jullien, một thạc sĩ nghiên cứu cổ Trung Hoa.
Các ông Hoàng Ngọc Hiến và một số người khác tán dương ghê lắm. Nhưng rồi “pháo
xịt”. Chính các học giả Pháp, Bỉ… viết bài “tố” ông này chẳng hiểu gì mấy về
Trung Hoa – phương Đông (xem bài Hữu Ngọc: Huyền thoại “văn minh Trung Quốc”
– Phản bác Francois Julien – honvietquochoc.com.vn).
Thôi thì giao lưu quốc tế, có cái được, cái không.
Miễn là thiện chí và đừng để ai lung lạc. Báo Tiền Phong nói dư luận nước
ngoài cũng phản đối bài của tác giả Bích Châu. Đó là ai, đó là Trần Thu
Dung ở Paris, người đã viết bài trên Tiền Phong, gây nên cuộc bàn thảo
này. Chúng tôi chưa được hân hạnh biết bà Trần Thu Dung. Nhưng ý của bà là
không thích đáng. Còn về ông Đà Linh thì chẳng ai có ý xử “ác” xử “tệ” gì với
ông, như có người kêu lên vu cáo. Những gì tốt trong con người ông, chúng ta
quí trọng. Nhưng đây là chuyện chính trị, liên quan đến quyền lợi dân tộc, “số
phận dân tộc” - như Nguyên Ngọc nói - Bóng đè cũng không phải chuyện nữ
quyền như bà mới phát biểu. Nó là thuốc độc chính trị giấu dưới chuyện
sex, nên chúng ta trao đổi, tranh luận chứ đâu có nhằm vào cá nhân ai? Ta hoan
nghênh Việt kiều, ở nước ngoài góp ý chuyện trong nước, nhiều ý kiến có giá trị
lắm nhưng chuyện văn chương – tư tưởng – chính trị này thì không đơn giản. Bà
Dung nói Paris tự do, đúng vậy, họ đã đi vào thời Phục Hưng giải
phóng cái tôi trước ta 6 thế kỷ! Nhưng nói tự do tuyệt đối thì cũng chẳng làm
gì có, khi mà xã hội vẫn giàu – nghèo phân biệt dữ dội, người lao động vẫn khốn
khó, thất nghiệp. Dĩ nhiên là họ hơn ta, ta biết, nhưng ta biết khi còn đại tài
phiệt, đại tư bản thì tự do cũng chẳng dễ dàng gì: tự do trước hết là cho kẻ có
tiền! Ta không khéo thì cũng đi đến đó!
Nguồn: honvietquochoc.com.vn