Chị đã nổi tiếng với ca khúc trữ tình “Huế tình yêu
của tôi” (phỏng thơ Đỗ Thị Thanh Bình). Tôi gặp, rồi trở thành người em thân
thiết với nhạc sĩ Trương Tuyết Mai khi đầu chị đã điểm sương. Thế mà, tôi thấy
Trương Tuyết Mai vẫn đẹp, đẹp kiêu hãnh bởi đôi mắt đen mở to, lông mày đậm và
giọng nói nhỏ nhẹ của chị. Thời trẻ, chắc chắn chị là mĩ nhân rồi và sức cuốn
hút của đôi mắt luôn mở to ấy không hề yếu ớt chút nào. Tôi lười, ít điện cho
chị nhưng tác giả Huế tình yêu của tôi thì tháng nào cũng từ thành phố Hồ Chí
Minh a lô cho tôi. Tôi rưng rưng nhận ra giọng của chị có nỗi buồn hiu vắng; những
khoảng lặng không dễ gì bù đắp được trong bản tổng phổ cuộc đời nhiều thăng trầm
sóng gió của người phụ nữ tài sắc mà đa đoan này. Có lẽ, đó là nguyên do chính
mà chị ngược dòng thời gian để trò chuyện với bóng mình và những hồi ức dĩ vãng
đã lần lượt hiện lên đầy lay động trong “Lật từng mảnh ghép” – hồi ức của
Trương Tuyết Mai, do NXB Hội Nhà Văn ấn hành.
Nhạc sĩ Trương Tuyết Mai trò chuyện với bóng
mình
NGUYỄN HỮU QUÝ
Trò chuyện với bóng mình. Không gì đúng hơn thế.
Trương Tuyết Mai thành thật thổ lộ: “Trong khuya khoắt, tôi ngồi tĩnh lặng trước
chiếc bóng của mình, vừa mơ hồ, lại vừa tin chắc chắn chiếc bóng cũng là hồn
vía của tôi. Tự tình với bóng là với chính mình. Chơi với bóng cũng là tự chơi
với mình. Rồi cứ thế, tôi hồn nhiên khóc cười cùng chiếc bóng in trên tường
nhà. Những nỗi niềm chất chứa bấy lâu cứ lần lượt tuôn ra, mỗi đêm một ít. Tôi
thong thả lật từng mảnh ghép nhỏ của đời mình trước chiếc bóng tri âm tri kỉ -
thật thà chiêm nghiệm…”
Những năm tháng xưa cũ trở về với chị qua hồi ức,
qua cuộc đối thoại (hay độc thoại nhỉ?) hằng đêm của người phụ nữ tài sắc
Trương Tuyết Mai với cái bóng của mình. Và, tất cả lần lượt hiện lên rõ nét,
nóng hổi, sinh động đến mức nó như vừa xảy ra, đang xảy ra. Những dòng hồi ức mồn
một, rung ngân bao cung bậc nhân thế thông qua cuộc đời chị. Tôi nghĩ, sự cô
đơn của chị đã được giải tỏa khi Trương Tuyết Mai được sống với quá khứ, được gặp
gỡ, trò chuyện, yêu thương hờn giận, vui buồn với người thân của mình. Quãng tuổi
thơ, quãng vào đời, quãng trưởng thành, từ vô danh đến nổi danh, thành công và
thất bại, vinh quang và buồn tủi… đã được Trương Tuyết Mai chậm rãi kể lại rất
chân thành. Tôi nghĩ thành công của một cuốn hồi kí là tạo được lòng tin ở bạn
đọc để được chia sẻ, đồng cảm. Mọi sự bồi đắp giả tạo trước sau cũng bị nhận
ra, bị lật mặt mà minh chứng cho điều này không khó tìm lắm ở nước ta hiện nay.
Đọc Lật từng mảnh ghép của Trương Tuyết Mai tôi tin vào sự thành thật của người
viết. Sự minh giám nghiêm khắc cho điều đó, không ai khác chính là linh hồn của
ba mẹ, người yêu đầu tiên của chị và cả những đồng đội, đồng nghiệp, bạn bè
đang sống hay đã khuất của Trương Tuyết Mai.
Đó là tuổi thơ nhiều đau khổ, phân li bởi chiến
tranh. Ba chị vốn quê gốc ở vùng đất Sông Cầu nằm bên vịnh Xuân Đài của Phú
Yên. Ông từng làm việc cho hải quân Pháp, khi toàn quốc kháng chiến đã theo
cách mạng và sau đó lên chiến khu của Việt Minh. Cô bé Mai được chú thím Bảy
mang về nhà nuôi và những “lỗi lầm” ngây thơ thời con nít đã xảy ra. Muốn được
nhập bọn chơi, bé Mai phải nộp năm xu hay lấy trộm đường phèn của chú thím đem
cho lũ trẻ. Khi bị phát hiện, tái xanh mặt nhưng cũng biết “nhắc” thím Bảy:
“Thím đánh con đi, đừng nhịp roi lên mông hoài như vậy, con sợ lắm.” Một cô bé
hồn nhiên nhưng có máu gan lì, tôi nghĩ thế. Đọng lại trong tôi nỗi thương cảm
về tuổi thơ đói khổ của chị: ba lên chiến khu, em bị thất lạc, còn má thì phải
rửa chén mướn cho một quán cơm. Tình cảnh gia đình chị lúc ấy như thế này đây:
“Khi bóng tối đổ xuống, đứa em trai hai tuổi của tôi thường khóc rền rĩ thảm
thiết, khóc khản cổ vì đói. Má đưa về thức ăn dư của khách và cơm cháy đáng lẽ
cho heo.” Cũng rất động lòng khi nghe chị kể lại cảnh đi tìm ba tập kết trong
khi má ốm thập tử nhất sinh. Một đứa nhỏ mới hơn mười tuổi vốn chậm chạp nhút
nhát lại vượt mưa rừng, vực sâu để đi tìm ba. Gặp ba, trở ngược lại nhà báo cho
má thì người sinh ra mình đã chết. Bốn chị em gạt nước mắt đến chỗ ba, sau đó
được lên tàu biển tập kết ra Bắc.
Qua hồi ức của chị, chúng ta hình dung được con đường
nghệ thuật của nhạc sĩ Trương Tuyết Mai. Chị kể, “Tôi được làm quen với âm nhạc
từ những ngày còn nằm nôi, bằng những câu hát ru dìu dặt đêm đêm của má tôi…”
Thời bé, Trương Tuyết Mai đã yêu thích những bài hát cách mạng. Ra Bắc, là học
sinh miền Nam ở Hải Phòng, Trương Tuyết Mai đi thi đơn ca thiếu niên thành phổ
biển vào mùa hè năm 1958. Hát mới được một nửa bài Chờ con má nhé chị đã nghẹn
ngào nức nở trên sân khấu. Giữa thủ đô Hà Nội thanh lịch, cô gái Mai với “bộ bà
ba đen, ống quần thật rộng, chiếc khăn rằn quấn cổ…” đi tuyển vào Trường Âm nhạc
Việt Nam. Mười tám tuổi, với đứa con nhỏ trên tay, Trương Tuyết Mai là học sinh
khoa kèn Trường Âm nhạc Việt Nam khóa 1961-1965. Cuối năm 1974, chị xung phong
đi B dài trong đội hình Đoàn Ca nhạc A8, CP90 (phiên hiệu Đoàn Ca nhạc Đài Phát
thanh Giải phóng A).
Khao khát lớn nhất của Trương Tuyết Mai là trở thành
người sáng tác âm nhạc và sau bao nhiêu cam go trăn trở chị đã thực hiện được
điều đó. Phổ thơ là khuynh hướng sáng tác của chị. Chị tâm niệm phải biết khai
thác thơ để phục vụ âm nhạc. Hồi ức của chị đã có những “mảnh” hay nói về điều
đó. Trong chiến tranh chống Mĩ, Trương Tuyết Mai đã sáng tác các ca khúc Xe ta
ơi lên đường (phỏng thơ Huy Cận), Đường yêu nhất - đường ra mặt trận (phổ thơ
Bùi Minh Quốc)… và có lẽ thành công cũng nổi tiếng nhất là bài Huế tình yêu của
tôi (phỏng thơ Đỗ Thị Thanh Bình). Bài này chị viết khi Huế vừa trải qua cơn
bão số tám (năm 1985), bị tàn phá rất nặng nề. Đây là hồi ức của chị: “Cuối năm
1985 tôi được tin Huế bị nạn. Cơn bão số tám năm ấy đã cuốn đi bao nhiêu mái
nhà, bao nhiều đường sá, bao nhiêu cánh đồng, cầu cống và người chết! Rồi bao
nhiêu em thơ, cụ già thiếu đói, không nơi nương tựa!... Tôi hiểu rằng đây là nỗi
đau của cả nước, và tôi càng muốn chia sẻ đau thương đó với Huế…” Chị viết ca
khúc cho xứ sở sông Hương núi Ngự bắt đầu từ tình yêu dành cho mảnh đất này với
suy nghĩ nó phải thật Huế, nghĩa là “không muốn có sự lẫn lộn âm hưởng của Quảng
Bình, Quảng Trị hay Nghệ Tĩnh ở đây”. Chị tự làm khó cho mình khi muốn “chất Huế
ấy phải từ trong hồn, trong máu tuôn chảy ra, chứ không phải dựa vào một câu
hò, một điệu lí cụ thể nào của Trị Thiên để phát triển”. Tuyệt vời thay, tình
yêu mặn nồng với Huế mộng mơ dịu ngọt đã làm cho chị thăng hoa, tài năng phát
sáng để công chúng gần xa được thưởng thức một ca khúc trữ tình sâu lắng diết da.
Tôi cũng có duyên với nhạc sĩ Trương Tuyết Mai khi chị phổ bài thơ Trường Sơn
tóc dài thành ca khúc, sau đó nâng lên thành bản hợp xướng khá hoành tráng.
Hồi ức Lật từng mảnh ghép cho ta hình dung ra một
Trương Tuyết Mai tài sắc nhưng cũng rất đa tình đa đoan. Chị là một vẻ đẹp u
huyền của cuộc sống. Tôi đã bị cuốn hút và vô cùng xúc động với những trang hồi
ức kể lại mối tình của chị với một người Pháp có tên Georges Boudarel (tên Việt
là Đại Đồng). Ông là một trong những người Pháp đầu tiên dám đấu tranh chống lại
chủ nghĩa thực dân. Năm 1947, Boudarel sang Đông Dương làm giáo sư triết học ở
một trường trung học Pháp ngữ. Năm 1949, từ Lào ông tới Sài Gòn dạy học; năm
1950 vào chiến khu Việt Minh, sau đó hai năm ra Việt Bắc công tác. Năm 1954,
ông làm việc tại Đài Tiếng nói Việt Nam và Nhà xuất bản Ngoại văn tại Hà Nội.
Tình yêu với Boudarel của chị là kỉ niệm đẹp và buồn. Dù hai người không thành
chồng vợ nhưng tôi tin tình yêu ấy đã đi suốt cuộc đời chị, từ lúc mười bảy tuổi
đến bây giờ và cả mai sau… Không nghi ngờ gì nữa, đó là vầng sáng của tình yêu,
vừa cổ điển vừa hiện đại, không phân biệt chủng tộc, lãnh thổ, tôn giáo. Nó tỏa
sáng và sưởi ấm cho chị vĩnh hằng: “Mỗi lần anh xuất hiện, khuông cửa tiệm ăn
như bừng sáng. Một thứ ánh sáng dịu nhẹ thánh thiện lạ lùng, cuốn hút tôi không
cưỡng lại được.” Nên nhớ, khi ấy chị là cô gái mới lớn lại ở miền Bắc vào những
năm sau hòa bình 1954. Có người đã trực tiếp hạch dọa chị rằng sẽ ghi vào sổ
đen, thế mà cô gái mười bảy tuổi Trương Tuyết Mai vẫn “buông thả mình mải miết
trôi theo dòng ánh sáng đó đến mê muội…” Cho đến sau này, khi số phận đã an
bài, chị vẫn nhớ nụ cười của người yêu đầu tiên: “Ngửa mặt hít thật sâu hương
đêm vào ngực, tôi bắt gặp những vì sao khuya nhấp nháy như âu yếm cười với tôi
– nụ cười của Bouda. Tôi như người mộng du trò chuyện cùng anh đang ở tít trên
cao. Rồi bài hát với cái tên Đợi chờ - viết về mối tình của tôi và anh, đã hình
thành từ đêm trắng ấy. Đợi chờ anh em chẳng tính từng giây, dù mỗi giây bằng
hai đầu thế kỉ. Đợi chờ anh dù mái tóc pha sương, dù cuộc đời chẳng cho em có
anh. Đợi chờ anh em như hóa người hành khất, với niềm vui ngược dòng thời gian
mải miết kiếm tìm kỉ niệm về anh. Mặc dòng đời cứ mải miết trôi, em vẫn đợi anh
dẫu có muộn màng…” Chị đã qua Pháp tìm người yêu thời thanh xuân của mình và giữa
Paris tráng lệ, hai người đã gặp nhau, cuộc gặp đầy nước mắt tủi mừng: “Cứ lặng
im phăng phắc. Lặng im để lắng nghe mọi nỗi đời đã trải qua của hai người ào ạt
xô về. Lặng im như không còn sự lặng im nào hơn thế…” Và, tình yêu ấy đã đạt tới
độ cao cả thiêng liêng khi chị quyết định lập bàn thờ cho Boudarel trong ngôi
nhà bé nhỏ của mình khi anh mất. “Bàn thờ Boudarel đặt trên đàn piano gần sáu
năm rồi, không đêm nào tôi quên thắp nhang cho anh. Mỗi lần thầm thì với anh về
những buồn vui trăn trở, về những nỗi đời cực nhọc, ngang trái, ánh mắt và nụ
cười anh như hóa giải hết mọi điều cho tôi. Ánh mắt và nụ cười ấy luôn tỏa ra
ánh sáng dịu nhẹ, vừa đủ ấm áp, vừa đủ nâng đỡ tôi những lúc chông chênh nhất.”
Tôi tin, ai đọc “Lật từng mảnh ghép” của Trương Tuyết
Mai cũng sẽ yêu chị nhiều hơn, không chỉ ở tài sắc mà còn ở tấm lòng thủy chung
rất Việt Nam!