Bút ký của Xuân Ba thường hướng tới những góc khuất
của đời sống, những vẻ đẹp khuất lấp của con người trong gió bụi thời gian. Sự
hằng sống này có những cái đẹp dễ phát lộ, rờ rỡ, dễ chiêm bái, tụng ca. Nhưng
như thế cần chi đến nghệ sĩ ngôn từ. Người trần mắt thịt ai ai cũng có thể diện
kiến, bình phẩm, định vị. Nghệ thuật là đi tìm cái Đẹp trong đời sống, nhưng
cái Đẹp đích thực nhiều khi không phô phang, trái lại nó thường ẩn giấu nên cần
cái nhìn thấu thị, tinh tế của người nghệ sĩ chạm đến, đánh thức và phát lộ. Thậm
chí đôi khi còn là hô ứng. Tôi nghĩ đó là cái ý tưởng phôi thai cho những bài
viết sinh sắc trong tập sách này: "Điện Biên, những góc khuất",
"Người vợ miền Nam của Tổng Bí thư Lê Duẩn", "Tôi chạm vào cánh
cửa một gia tộc không thường", "Cửa nhà học giả Nguyễn Văn
Vĩnh", "Đến Cố cung nhớ Nguyễn An", "Mê cung Nguyễn Đình
Thi qua lối dẫn chuyện của ông con Nguyễn Đình Chính", "Gặp lại ông
Quách Lê Thanh".
GẦY BÉO XUÂN
BA
BÙI VIỆT THẮNG
Làng văn từng bao phen tốc tả ganh đua những tản
văn, truyện ngắn, tiểu thuyết… Còn thơ thì thôi rồi, nhà nhà… làm thơ, người
người... làm thơ! Riêng thể loại bút ký văn học thì có vẻ heo hẻo cứ như cái thể
này nó chọn người, kén người? Trong khung cảnh cùng mặt bằng ấy thấy một Xuân
Ba cứ đủng đỉnh, tưng tửng với thể ký, hết phóng sự đến bút ký. Mà hàng tập tày
tặn của các nhà Hội Nhà văn, Văn học, Thanh Niên với những "Mọi linh
hồn đều được đưa tiễn", "Vẫn phải tin vào những giọt nước mắt",
"Thời chưa xa người chưa cũ", "Khang khác mây thường",
"Chuyện buồn kể muộn", "Một tuần nước Mỹ". Và đây là
"Ngọn cỏ gió vờn".
Cái đề sách nghe cứ từa tựa tiểu thuyết "Ngọn cỏ
gió đùa" (1926) của cụ Hồ Biểu Chánh xa xa vậy. Không biết có liên tưởng
gì không khi đặt tên cho đứa con tinh thần của mình? Cuốn này in đã vài năm
nhưng nay tôi mới có… Văn của Xuân Ba không thể cứ đọc nhanh mà được. Và vẻ như
hơi chuế bởi thời buổi này thiên hạ phải ào ào sôi động đến cả như miếng ăn miếng
uống còn fast-food nữa là? Tôi ngờ rằng tay viết này kén người đọc. Xuân Ba
khôn khéo bưng bê thứ hàng nhà của mình đến với những tạng sống chậm, những người
mà quỹ thời gian chả mấy câu thúc có hơi tí nhàn rỗi, có đôi chút nghiền ngẫm,
lại sẵn hào hiệp tiếp nhận chữ nghĩa của một người say chữ, đôi lúc như là…
nghiện chữ. Có những cái của Xuân Ba phải đọc hơn một lần mới thấm, mới ngộ
theo phương châm "nhai kĩ no lâu cày sâu tốt lúa". Tôi muốn tặng bạn
văn của mình mấy đoản khúc sau.
1.
Bút ký của Xuân Ba thường hướng tới những góc khuất
của đời sống, những vẻ đẹp khuất lấp của con người trong gió bụi thời gian. Sự
hằng sống này có những cái đẹp dễ phát lộ, rờ rỡ, dễ chiêm bái, tụng ca. Nhưng
như thế cần chi đến nghệ sĩ ngôn từ. Người trần mắt thịt ai ai cũng có thể diện
kiến, bình phẩm, định vị. Nghệ thuật là đi tìm cái Đẹp trong đời sống, nhưng
cái Đẹp đích thực nhiều khi không phô phang, trái lại nó thường ẩn giấu nên cần
cái nhìn thấu thị, tinh tế của người nghệ sĩ chạm đến, đánh thức và phát lộ. Thậm
chí đôi khi còn là hô ứng. Tôi nghĩ đó là cái ý tưởng phôi thai cho những bài
viết sinh sắc trong tập sách này: "Điện Biên, những góc khuất",
"Người vợ miền Nam của Tổng Bí thư Lê Duẩn", "Tôi chạm vào cánh
cửa một gia tộc không thường", "Cửa nhà học giả Nguyễn Văn
Vĩnh", "Đến Cố cung nhớ Nguyễn An", "Mê cung Nguyễn Đình
Thi qua lối dẫn chuyện của ông con Nguyễn Đình Chính", "Gặp lại ông
Quách Lê Thanh".
Tự nhiên chẳng hiểu sao rưng rưng khi đọc "Người
vợ miền Nam của Tổng Bí thư Lê Duẩn" dài đến 38 trang. Đọc xong, cứ có cái
cảm giác thòm thèm, muốn đọc nữa, muốn được biết thêm nữa, và cuối cùng là cảm
thức bi ai về phận người trong cõi nhân sinh. Nhân vật người phụ nữ Nam Bộ có
cái tên đẹp Thụy Nga "32 năm làm vợ anh Ba, nhưng chỉ có 3 năm là thực sự
hạnh phúc". Vì sao? Vì sự xô đẩy của hoàn cảnh, vì sự run rủi của số phận,
lại cả vì Tạo hóa "Lạ gì bỉ sắc tư phong/Trời xanh quen thói má hồng đánh
ghen".
Trong mắt tôi và nhiều độc giả, bà Thụy Nga hiện lên
như là một Thánh Nữ, một Liệt Nữ thời hiện đại. Đó là điển hình cho sự hy sinh
vô bờ bến của người phụ nữ trong thời đại cách mạng và chiến tranh, không ở đâu
trên trái đất này dài dặc như ở Việt Nam 30 năm ròng. Tôi nghĩ, nhà văn chúng
ta còn một món nợ lớn với lịch sử, với nhân dân vĩ đại và anh hùng. Xuân Ba có
cái khát vọng vén bức màn lịch sử, giải mã nó từ góc nhìn và cảm xúc thẩm mỹ của
riêng mình, bằng cách hướng tới những cá thể đã can dự vào lịch sử. Tôi nghĩ
anh đã từng bước thực hiện được dự định tốt đẹp đó.
2.
Bút ký của Xuân Ba nhằm phô bày sự kiện và con người
qua lăng kính văn hóa. Tôi nghĩ, đó là nét chủ đạo, là phẩm tính cần vươn tới của
nghệ thuật ngôn từ. Đến Điện Biên, ngoài việc có ý nghĩa là đi thực tế, khám
phá một vùng đất lịch sử, tác giả còn đặc biệt chú ý đến những nét văn hóa của
xứ sở này. Đến đây phải biết, phải chạm mặt với Xòe. Bằng nhiều chiêu thức,
Xuân Ba cống hiến cho độc giả những cảm thức về Xòe Tây Bắc. Tôi từng mãn nhãn
với Nguyễn Tuân, Tô Hoài viết về Xòe, nhưng đọc thêm "Điện Biên, những góc
khuất" của Xuân Ba vẫn cứ thấy khoái vị vì nhiều lẽ, trong đó có lẽ cái
cách tác giả "lẩy" ra từ Xòe những cái kênh độc đáo để đến với tình
yêu Xòe.
Trong phạm trù văn hóa Việt thì Văn là một bộ phận lớn,
nếu không nói là tất cả trong thời quá khứ. Văn đi với chữ, chữ đi với nghĩa, vậy
nên chữ "văn" hàm nghĩa rộng hơn văn chương. Nhiều người lấy làm lạ
và cả phục nữa khi thấy Xuân Ba thuộc hàng "hậu sinh" cũng mon men
"Chiêm quan thêm chữ nghĩa Đền Hùng", một bài mà theo tôi rất ngờ rằng
anh đã phải vận công lực và có cái gì đó như là phóng chiếu và thăng hoa khi viết.
Bây giờ người Việt có một cái giỗ chung gọi là Giỗ Tổ, cùng nhờ đó mà lịch sử
ta nối dài ra được đến 4.000 năm. Giắt lưng cái vốn Hán Nôm chưa phải là đẫy
nhưng rõ ràng là Xuân Ba bộc phát tài hoa khi viết, khi chiêm quan bằng cảm thức
về ngữ nghĩa của câu chữ ở Đền Hùng.
Phải lắm bận về Thành Nhà Hồ để có "Gió hú
Thành Hồ", theo tôi, là một đoản văn có dư ba về một đề tài cũ là Di sản
văn hóa thế giới. Như kiểu giải mã riêng của Xuân Ba về một ông vua Hồ Quý Ly
chỉ 7 năm ở ngôi nhưng hậu thế hiện tại vẫn tốn bao giấy mực luận bàn mà chưa
có hồi kết? Rồi một phạm trù không mới nhưng cực kì nhạy cảm là "văn hóa từ
chức".
"Chợt nghe Tiến sỹ từ quan" viết về cách
hành xử của nhà báo Trần Đăng Tuấn, đương chức Phó Tổng Giám đốc thường trực
Đài Truyền hình Việt Nam gửi đơn từ chức lên Chính phủ. Xuân Ba biết lẩy chọn
biết sắp xếp bày biện những chi tiết để bật ra những là lạ lấp lánh của một
khái niệm tiết tháo kẻ sỹ. Đó là nhân cách, là đạo đức. Đạo đức là văn hóa ứng
xử của người chân chính. Tôi riêng thích đọc Xuân Ba trong bút ký cũng là từ
khía cạnh nhân văn, văn hóa này.
3.
Bút ký của Xuân Ba cũng gợi suy nghĩ về chữ và nghĩa
trong văn chương hiện nay. Xuân Ba là người say chữ, nghiện chữ như đã nói ở
trên. Cũng có người nhận xét là Xuân Ba na ná lối khụng khiệng của cụ Nguyễn
Tuân lúc dùng chữ. Tôi nghĩ, nếu ai đó có bị ảnh hưởng một tài năng thì hà cớ
gì mà ỷ eo này khác?! Chỉ sợ ảnh hưởng cái thấp kém, tuột dốc, lạc hậu mà thôi.
Giẫm trọn và bê nguyên xi những khụng khiệng ấy sẽ thành là thứ vô lối. Nhưng
cái cách cảm của Xuân Ba theo lối riêng tuồng như một kiểu khảnh khót khi bập
vào địa hạt của chữ nghĩa ngôn từ?
Một bậc trưởng lão trong làng văn sinh thời có nhận
xét về một vài cây bút hậu thế là "Văn anh này béo chữ nhưng ý gầy".
Vậy là có sự "béo" và "gầy" trong câu chữ văn chương đây?
Văn Xuân Ba quả thực là "béo" chữ rồi. Nhưng để xem có
"béo" ý hay không? Thử lấy "Ngọn cỏ gió vờn" (có độ dài 30
trang in khổ 15x23) ra mà khảo thì sẽ xác quyết được chất văn trong chữ nghĩa
Xuân Ba. Chữ thì rõ là một "bồ" rồi (khoảng 12.000 chữ đâu có ít cho
một bài bút ký). Nhưng ý, rất may là cân phân, xuyên suốt: cái tấm lòng thẳng
sáng của con người như một diệu pháp linh ứng, dẫn dắt con người hành động
và thường khi nhờ đó mà vượt qua được những cắc cớ, rủi ro, thậm chí hiểm nguy
liên đới đến danh dự và tính mệnh.
Xuân Ba viết ký có sự đầu tư kĩ lưỡng cho câu
chữ. Cái vốn tiếng Việt của anh có thể nói dồi dào, phong lưu. Lại hào hiệp,
khoáng đạt. Anh hay làm công việc lai tạo của một người làm vườn chữ nghĩa. Đại
khái: "Một cái lý lịch đen ngũm là con gián điệp" (Cửa giả nhà ông
Nguyễn Văn Vĩnh, tr.315). Đó là nói về nỗi oan khuất của những đứa con ông Nguyễn
Phổ, gọi cụ Nguyễn Văn Vĩnh là ông nội. Cũng trong bài vừa dẫn khi viết về chuyến
đi chùa Hương nhân đó mà nhà thơ tài năng nhưng bạc mệnh Nguyễn Nhược Pháp viết
được bài thơ nổi tiếng "Chùa Hương": "Nhưng khi đó Nguyễn Nhược
Pháp có ỏ e chi đến tấm hình" (là nói về việc bất chợt nhà thơ được người
ta chụp hình).
Tra Từ điển tiếng Việt không thấy đen ngủm, ỏ e.
Nhưng trong văn cảnh này thấy được. Văn bút ký Xuân Ba đong đầy cảm xúc kiểu
như: "Bên cửa sổ sắc thu đất nước hoa hồng dường như cứ chùng chình mãi bởi
những tàn lá phong chườm hờ vẫn xanh ngằn ngặt chả chịu chín đỏ chín vàng
cho" (Viết ngày giỗ đầu Blaga Đimitrôva, tr.115). Và cái này thì riêng tôi
mới cảm thấy chứ chưa rạch ròi ra được: Văn Xuân Ba có được cái nhịp điệu
(rythme) riêng - hối thúc mà không vội vã, nhàn tản mà không chậm trễ, động mà
không thiếu tĩnh, lắm du dương mà không lạc điệu. Nói thế có vẻ là khen Xuân Ba
quá trời?!
4.
Cũng phải vạch ra vài ba cái khiếm khuyết trong
"Ngọn cỏ gió vờn" để Xuân Ba bớt say, nên chăng? Vì quá tự tin nên
đôi khi Xuân Ba hở sườn khi viết, kiểu như: "Phụng được đi học chữ nghĩa
không biết được mấy hột nhưng thuộc làu những cuốn sách của Tự lực văn đoàn, những
Hồn bướm mơ tiên những Nửa chừng xuân. Tố Tâm. Đời mưa gió…" (Những long
đong quanh một cuốn hồi ký truân chuyên, tr.213). "Bé cái nhầm"!
"Tố Tâm" của cụ Song An Hoàng Ngọc Phách ra đời năm 1925, lúc đó Tự lực
văn đoàn còn trong… hư vô. Mà cụ Song An cũng không có chân trong Tự lực văn
đoàn! Tôi đồ rằng lúc viết đoạn này Xuân Ba đang say sưa.
Lại nữa, như người ta nói mọi sự so sánh đều khập
khiễng. Nhưng so sánh thế này thì khập khiễng bình phương: "Cách mạng Pháp
1789 đã vô tình làm mất nhà bác học danh tiếng Lavoisier của nước Pháp. Nhưng
công bằng mà nói rằng, nước Pháp mất một Lavoisier còn có nhiều nhà bác học
khác nối công trình nghiên cứu của Lavoisier, còn nước Việt Nam mất đi ông chủ
bút Nam Phong, một nhà báo nhà văn kiêm học giả, một nhà văn hóa lớn mà thời
gian nửa thế kỷ chưa lấp đầy khoảng trống trên diễn đàn ngôn luận và văn học"
(Tôi đang chạm vào cánh cửa của một gia tộc không thường, tr.305). Viết như thế
là tụng ca trong thể tráng sỹ ca của thời cổ đại. Hơn thế Phạm Quỳnh còn đang
là một vấn đề bỏ ngỏ của lịch sử hiện đại. Nói như tên một bộ phim hoạt hình
Nga nổi tiếng: "Hãy đợi đấy!".
Hà Nội, tháng 7 năm 2015.