Thực là thú vị và bổ ích khi chúng ta được ngó mắt
vào công việc “bếp núc” của nghề văn lại do chính các nhà văn kể lại. Nhà văn
Nga chuyên viết những chuyện lãng đãng, mộng mơ - Konstantin Paustovsky khá
quen thuộc với bạn đọc nước ta với những Tuyết,
Con tàu đi Simferopol, Lẵng quả thông, Natchia… cũng đã bàn về việc nghề
trong tập tiểu luận đầy chất thơ “Bông hồng vàng”. Xin giới thiệu với bạn
đọc đoạn tản văn dưới đây rút từ tập "Chuyện đời" của ông, khi nhà văn Konstantin
Paustovsky muốn làm sáng tỏ mối liên quan giữa những gì quan sát rồi ghi chép lại
với trí nhớ, với óc tưởng tượng sáng tạo…
Nhiều người thường hỏi các nhà văn họ có tìm sự trợ
giúp của số ghi chép hay thuần túy dựa vào ký ức? Số đông các nhà văn đều có sổ
ghi chép nhưng họ rất ít khi dùng tới lúc ngồi vào bàn để tạo ra những trang
sách của mình. Sổ ghi chép tồn tại trong văn học chủ yếu lại như một thể loại độc
lập. Chúng thường ra đời bên cạnh các cuốn tiểu thuyết, các tập truyện ngắn,
truyện vừa của nhà văn này, nhà văn kia.
Ngay từ thời ở bậc trung học, thầy giáo môn “tiếng
Nga” của chúng tôi, ông già Sulghin rất thích nhắc nhở để chúng tôi nhớ rằng
“Văn hóa đó là ký ức”. Thoạt đầu chúng tôi không thể nào hiểu nổi thầy Sulghin
ý nói gì. Rồi với năm tháng và tuổi tác chúng tôi hiểu ra điều thầy căn dặn.
- Chúng ta – thầy Sulghin nói - lưu giữ trong trí nhớ
của mình cả một thế kỷ. Toàn bộ lịch sử thế giới, những hình ảnh, những suy ngẫm
- tất cả găm vào trong ký ức rồi lý trí của chính chúng ta buộc chúng ta phải
làm việc. Nếu không có ký ức, chúng ta đang sống đấy mà như những con chuột
chũi mù lòa.
Đối với nhà văn ký ức hầu như là tất cả. Ký ức không
chỉ lưu giữ lại những chất liệu đã được gom tụ được. Giống như một cái sàng màu
nhiệm, ký ức gạn lọc lấy những gì quý giá nhất. Bụi bẩn và mủn ải bị gió xáo sới
lên rồi cuốn đi, còn lại trên mặt đất là những hạt mẩy vàng. Và chí từ những hạt
mẩy vàng đó thôi mới có thể tạo nên những tác phẩm nghệ thuật.
Không phải tình cờ tôi xin trở về với những cuốn sổ
ghi chép.
Mấy năm trước người ta đã nhờ tôi đọc cuốn sổ ghi
chép của một nhà văn đã qua đời. Tôi bắt đầu đọc và bị thuyết phục ngay vì đó
không phải là những mẩu riêng lẻ, được ghi lại như những gì thường bắt gặp
trong những cuốn vở ghi chép, những cuốn số nhật ký. Cuốn ghi chép của nhà văn
xấu số này hoàn toàn gắn liền với việc miêu tả một thành phố biển cón ít người
biết tới. Sau đây tôi sẽ làm sống lại những dòng ghi chép kia với độ chính xác
có thể.
Xin được nói ngay, càng đọc vào sâu cuốn ghi chép
này thì những màu sắc, những mùi vị không thể nào quên, những nơi tôi đã từng tới
như bật sống cả dậy trong ký ức. Ấy thế nhưng tôi không thể nhớ lại ngay được
tôi đã gặp cảnh này, cảnh kia ở nơi nào và bao giờ. Tất cả như bước ra từ màn
sương mù hoặc từ một giấc mơ đã lâu mà mình đang cố gắng phục hiện lại từng mảnh,
từng mẩu y như hàn dính lại một cái bình sứ bị vỡ.
Vậy điều gì đã có trong những cuốn sổ ghi chép? Trước
tiên, đó là sự miêu tả chính xác những hàng cây, những bông hoa của giống
cây keo ở thành phố ven biển..
“Loài hoa này nhanh chóng chuyển qua màu vàng, phơn
phớt hồng có cảm giác như héo khô đi một chút. Bóng rợp của những chùm lá đổ
trên những bức tường trắng chập chờn đung đưa mỗi khi có một làn gió nhẹ thoảng
qua. Ngắm nhìn bóng rợp lung linh đó cũng đủ nhận ra anh đang ở phía Nam và ở
không xa biển. Khi những hàng keo thiu ngủ, gió mang những vốc hoa rải đầy các
đường phố. Những cánh hoa keo như những lớp sóng lặng lẽ lang thang trên những
khúc đường trải nhựa, chạy tới tụ họp dưới chân những hàng rào sắt bao quanh những
khu vườn hoặc những bức tường nhà.”
Trong cuốn sổ ghi chép mà tôi đang đọc còn có cả những
dòng miêu tả những bậc đá lối xuống các bến cảng. Đó không phải những gì vụn vặt
cần cho việc miêu tả văn chương mà trong cơn nhập đồng người viết ghi lại.
“Những bậc tam cấp trên lối xuống bến cảng sáng ánh
lên màu chì bởi những chiếc móng ngựa siết qua. Giữa những khe đá nhú mầm mạ
xanh non của những hạt lúa kiều mạch, lúa mì rơi vãi. Một loài cây dại mọc lên
dưới chân bức tường bao quanh bến cảng. Những cành nhánh của loại cây dại này cố
vươn lên cao hệt như một dòng thác ngưng chảy được tạo nên bởi gió, đám lá xanh,
những chiếc gai nhọn và những bông hoa vàng. Ở đôi chỗ trên cái nền xanh bụi bậm
ấy hiện ra những khoảng không gian cuốn hút mắt nhìn. Đó là nơi trú ngụ của các
quán cà phê, quán trà. Ngoài cà phê ra, bạn có thể thưởng thức ở những quán này
món bánh rán phết mật theo kiểu Thổ Nhĩ Kỳ. Các quán cà phê, quán trà này thường
lắp cửa kính. Thấp thoáng sau lớp kính là bóng dáng những chàng thủy thủ đang mải
mê chơi bài tây. Nhưng đó chưa phải là tất cả. Cũng ở nơi này còn có những bà
già ngồi trên những chiếc ghế thấp bán hạt dẻ rang. Góc sâu hơn như ngập chìm
trong cái nóng nực, ở đó có thể nghe thấy tiếng những chiếc thìa gỗ đảo trên chảo
gang để rang đám hạt dẻ. Có một chiếc cổng hình vòm. Nhìn qua cổng xuống phía
dưới - giống như trong bức tranh của trẻ con - cảng hiện ra hệt như một món đồ
chơi. Những con đê chắn sóng mảnh mai mọc đầy cỏ dại. Cỏ cũng phủ kín những đoạn
đường rày. Điều này thật đáng tiếc. Nếu không thế, chúng ta sẽ nhìn thấy những
thanh đường rày đỏ lên vì rỉ sét và những đóa hoa cúc như dán những cánh trắng
mỏng mảnh của mình vào những thanh rày kia.Trong miệng những chiếc ống gang dẫn
xuống bờ cảng đều chứa một thứ nước lợ. Hãy ghé mũi vào đấy bạn sẽ ngửi thấy một
thứ mùi khiến trái tim bạn như đập rộn ràng hơn. Đó là mùi của biển cả trộn lộn
với mùi của cây ngải cứu - thừ mùi vị đó khiến đầu óc bạn tỉnh táo hơn để nhớ lại
những chuyến ra khơi vốn vẫn làm giàu có cho con tim và khối óc bạn.
Những ngọn sóng xanh ngắt vẫn hắt bọt tung tóe. Từ
tít trên cao những con hải âu cất tiếng cười ranh mãnh khi nhận ra lũ giẽ giun
hiền lành kiếm mồi phía dưới. Sóng biển vỗ ì oạp vào bờ đập khiến những sợi
giây xích dưới chân tháp đèn kêu rít lên. Như phụ họa, ánh sáng của ngọn
hải đăng trên phần đất nhô ra của hải cảng cũng nhấp nháy liên hồi. Những
chiếc cột buồm nhấp nhô ngoài bến cảng có treo những quả bóng, những chiếc mũ -
những dấu hiệu bí ẩn. Những quả bóng đen kia cảnh báo điều gì? Có thể là sắp có
những lớp sóng bùn. Mà cũng có thể là sóng yên bể lặng hoàn toàn. Khi đó độ
trong suốt của không gian như tan hòa vào biển biếc. Và biển cả nhận lấy sự
trong trẻo này để mở ra tầm nhìn xuyên thấu tới tận đáy. Không, có thể có giông
bão! Những cánh buồm đen trên những con thuyền đánh cá chẳng đang run rẩy kia
thôi. Trong lúc nhập nhoạng bước vào đêm những ngọn đèn trên các con tầu nhấp
nháy liên hồi.
Ý định về một chuyến đi xa đã lụi tắt trong lòng bạn.
Ấy thế mà bạn vẫn cảm thấy hơi nuối tiếc sẽ phải tạm biệt thành phố đáng mến
này, khi những làn gió làm bật mở những cánh cửa sổ trên các bức tường, để bạn
được ngó mắt nhìn vào trong những gian phòng sáng rực ánh đèn mà nhận ra những
cuốn sách dày cộm, có thể là những tổng tập của tạp chí “Neva”, tạp chí “Vòng
quanh thế giớ” hay tạp chí “Tổ quốc”.
Chả lẽ ở bến cảng này không hề có một con tầu đi biển
nào sao?. Có đấy, nhưng là một chiếc xà lan. Nó như đang thiu ngủ một cách ngon
lành bên bờ kè. Còn có cả một chiếc tầu dắt già nua mang tên Người công dân Biển
cả. Còn có cả hai chiếc thủy ngư hạm súng đạn đầy mình.
Đã có một thời những chiếc tầu chiến này được đưa tới
đây để loại bỏ. Ấy vậy nhưng chừng nào chúng còn hiện diện ở cảng, những chùm
xích sắt nặng nề vẫn như những cánh tay thọc thẳng xuống nước. Xuyên qua những
giấc mơ, những con tầu này vẫn muốn nhắc lại những chuyến hải hành của mình tới
vịnh Maghenlla Và mũi tầu cắt góc quần đảo nước nhờn Arkhipelag. Trong bóng tối,
dù phải khó khăn một chút vẫn nhận ra những mũi đất, đài quan sát và ống khói
những con tàu.
Ban ngày có thể đi thuyền đến với những thủy ngư hạm
kia để trao vào tay đám thủy thủ bao thuốc là “Nàng Digan Ala” và sau đó ngồi
dưới bóng rợp của cột ống khói mà đọc cuốn sách bạn ưa thích, ngồi như vậy đến
lúc nào cũng được. Tốt nhất, trong thời khắc ấy hãy đọc thơ hoặc những ghi chép
du ký, kiểu như “Tàu khu trục Pallada” hay nhật ký của thuyền trưởng
Cook.
Nhưng nói chung ra, bạn hãy tự lựa lọc lấy sách mà đọc.
Chứ cánh buồm bạc phếch vì tuổi tác và mùi vị của những boong tàu bằng thép quấn
quit rong rêu ở phía dưới vẫn sẽ cuốn hút bạn hơn.
Đứng trên boong của những thủy ngư hạm vinh quang một
thuở này bạn có thể nhìn bao quát biển biếc. Biển không lấp lánh màu xanh da trời,
màu lam ngọc, màu tím ngắt và những vẻ đẹp quen thuộc của vùng biển phương Nam.
Biển xanh màu lá tơ non và bình yên. Vật trang điểm duy nhất cho biển cả là những
đám mây. Biển mê say ôm lấy bầu trời khi biển hiểu rằng chỉ có mây trời là làm sống
dộng không gian của biển cả. Những cụm mây chậm rải ùn lên ở phía nam. Nom
chúng giống như những thành phố thời Trung cổ với những pháo đài, những ngôi
nhà thờ,những vòm cuốn hoành tráng, những lâu đài nguy nga. Chúng giống cả hai
dẫy núi tuyết Monblanov và Monteroz.
Một ông họa sỹ ngông cuồng nào đó đã phết màu
lên thành phố này. Để những đám mây như bừng sáng lên vào lúc chập choạng chiều
- một buổi chiều hòa trộn nhiều sắc màu từ xanh lá cây chuyển qua màu vàng, màu
hồng ngọc cho tới màu ánh bạc.”
Tôi đọc cuốn tập ghi chép và điều gì đó rất đỗi thân
thuộc như bóp nghẹt trái tim tôi. Tôi gắng lục tìm có thể là tên mới, hoặc tên
cũ của cái thành phố hiện ra trong những trang ghi chép kia. Từ sâu thẳm trong
lòng tôi thầm đoán xem thành phố ấy là thành phố nào, nhưng tôi không thể đoán
ra…
Aha! Đây rồi! Tôi đã tìm được… Trong các tác phẩm của
một nhà văn nổi tiếng, cứ cho là ông ta sinh trưởng ở cái thành phố được miêu tả
trong tập vở ghi chép kia đi, tuyệt nhiên không có điều gì giống như ông ta đã
ghi lại trong tập vở của mình. Không hề có biển cả, không hề có bến cảng, không
hề có những hàng cây keo, càng không có một cánh buồm đen nào cả!
TÔ HOÀNG
dịch