Câu chuyện của nhà văn Lê Văn Nghĩa: “Nhân dịp Tổng Đoàn Học
Sinh Đà Nẳng làm lễ kỷ niệm 45 năm thành lập, thì tôi chợt nhớ lại những buổi
nói chuyện với những người bạn học sinh ngày xưa về đề tài “bài thơ nào có ấn tượng nhất vào những năm kháng chiến?”. Tất cả đều
trả lời rằng đó là bài thơ “Một Thế Kỷ Mấy Vần thơ” của Truy Phong. Những năm 1970, trong những buổi sinh hoạt văn
nghệ lửa trại Sinh Viên Học Sinh, hoạt cảnh kịch thơ “Một Thế Kỷ Mấy vần thơ”
thường là tiết mục “đinh” đầy hào hùng mà ai xem đều cũng sôi lòng. Đến bây giờ,
tôi vẫn nhớ giọng ngâm của học sinh Duy Thanh sang sảng: ‘Cái gì bạo ngược và phi nghĩa/ Là trái lòng dân, nghịch ý trời/ Sắt
thép tinh ròng, binh tướng dữ/ Không sao thắng được trái tim người…”
VỀ MỘT BÀI THƠ TỪNG GÂY CHẤN ĐỘNG SÀI GÒN…
LÊ VĂN NGHĨA
Sở dĩ lũ học sinh chúng tôi thích bài thơ nầy vì lời thơ “ý
tại ngôn ngoại” của nó. Làm sao có thể thể hiện sự áp bức của giặc, lòng yêu nước
của dân ta bằng những bài thơ “bí mật”, từ khu gửi ra cho được. Phải có một bài
thơ đã được đăng báo và xuất bản tại Sài Gòn. Do vậy, bài thơ “Một Thế Kỷ Mấy Vần
Thơ” rất phù hợp vì nói lên lòng quả cảm của dân tộc ta trong cuộc chiến chống
Pháp- mà thật ra – chúng tôi đều biết tác giả muốn nêu lên khát vọng thống nhất
đất nước từ năm 1956- khi mà người kháng chiến bị khủng bố cùng cực. Riêng đối
với tôi, bài thơ không chỉ kéo dài trong thời kỳ hoạt động ở Sài Gòn mà còn kéo
dài đến những năm nằm ở trại 2, được xem chú Năm Khâm –cán bộ Công Đoàn biểu diễn
kịch thơ.
Ngày 27-4-1956, lần
đầu tiên, nhật báo Tiến Thủ đăng một bài thơ
trên trang nhất với cái “tít” màu đỏ thật lớn, thật đẹp chạy
suốt bề ngang tờ báo khổ rộng. Hai câu thơ “Đinh ninh anh nhớ một lời/ Ngày
mai thống nhất liền đôi bến bờ” như chọc
xoáy vào việc chính quyền Ngô Đình Diệm công khai xé bỏ hiệp định Giơ –neo, không
thi hành tổng tuyển cử thống nhất hai miền nam bắc. Bài thơ đó đã gây nên một tiếng
vang lớn và là hành trang tinh thần cho những người kháng chiến trong nội
thành. Sau nầy có dịp gặp nhà thơ Kiên Giang- Hà Huy Hà, lũ chúng tôi được biết
khoảng tháng 4 năm 1956, lúc đó chính quyền Sài Gòn tuyên bố không hiệp thương
tổng tuyển cử và tung chiến dịch “tố cộng” đàn áp những người kháng chiến thì
thầy giáo Dương Tấn Huấn đang dạy học tại Trà Vinh, thao thức trước vận mệnh đất
nước và muốn dùng ngòi bút để đấu tranh nên đã “luồn lách”, mượn chuyện Pháp
thua trận, kéo cờ để nói về tinh thần của người dân Việt khi có họa xâm lăng đất
nước thân yêu của mình.
Nhà thơ Truy Phong đã
hoàn thành bài thơ mang tính lịch sử nầy vào đêm 16-4 năm 1956. Thầy giáo Dương
Tấn Huấn phải ký bút danh là Truy Phong để tránh sự trả thù của mật vụ rồi nhờ
bác Hai Phương , thân phụ của một cô học trò, chủ xe đò tuyến đường Trà Vinh- Sài
Gòn chuyển bài thơ đến tòa soạn báo Tiến Thủ.
Khi đọc bản thảo bài thơ này, ông Việt
Tha- Lê Văn Thử, chủ nhiệm tờ Tiến Thủ chẳng biết nhà thơ Truy Phong là ai
nhưng đọc nội dung, thấm được khẩu khí anh hùng, ông biết ngay là phe ta nên chọn
đăng một cách trang trọng trên trang nhứt. Ông viết: “Theo tôi thơ như vậy
mới là thơ, thơ của thời đại chúng ta”. Ngay sáng hôm ấy, ở Sài Gòn,
báo Tiến Thủ bị tịch thâu và chính quyền cho bọn côn đồ đến đập phá tòa
soạn tại 224 đường Gia Long ( đường Lý Tự Trọng ngày nay) sau đó tòa báo bị
đóng cửa . Ông chủ nhiệm Việt Tha phải đi trốn.
Một thời gian sau,
tờ tạp chí Mã Thượng đăng lại “Một thế kỷ – Mấy vần thơ”, từng đoạn có tranh
màu minh họa. Từ tháng 4/1956 đến tháng 4/1975 bài thơ này được đăng đi đăng lại
mấy mươi lần trên báo chí miền Nam: Đuốc Nhà Nam, Thần Chung, Tin Sáng, Dân Chủ
Mới, Tiểu Thuyết Thứ Năm… Tờ Selection Du Reader’s Digest, năm 1957 cũng trích
dịch lại một đoạn bài thơ này. Lúc bấy giờ, bài thơ chẳng những được nhắc nhiều
trên dư luận báo chí như là một bài thơ hay, một bài thơ hào hùng, đánh dấu sự
cáo chung một giai đoạn thực dân thống trị trên đất nước ta và, quan trọng hơn,
hun đúc tinh thần kháng chiến chống Mỹ.
Sở dĩ lũ học sinh chúng tôi bị bài thơ cuốn hút như vì nhà thơ Truy Phong đã
làm nên những câu thơ có tính chất tuyên ngôn như: “Việt Nam nước của tôi/ Già như trẻ/ Gái như trai/ Chết thì
chịu chết/ Không cúi lòn ai/ Tham lam ai muốn vô xâm chiếm/ Thì “giặc
vào đây, chết ở đây!”.
Nhà thơ đã khẳng định
lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam từ ngàn xưa: “Chắc anh bao giờ quên được/ Những là đường đi nước bước/ Những là tên
tuổi Việt Nam:/ Suối Yên Thế tuôn tràn hậm hực/ Đất Thái Nguyên căm tức nổi vồng./
Tháp Mười hận nước mênh mông/ U Minh mấy trận bão lòng chưa nguôi!.../ Việt
Nam, nước của tôi/ Sông sâu, đồng rộng/ Trái tốt, hoa tươi.../ Hà Nội kinh
thành trang chiến sử/ Sài Côn đô thị rạng anh tài/ Phú Xuân bừng chói gương ưu
quốc/ Nghĩa nặng tình thâm vạn thuở nay!/ Việt Nam, nước của tôi:/Ruộng dâu hóa
bể/ Lòng chẳng đổi thay”
Bằng cảm nhận của một nhà giáo
yêu nước, đã chịu đựng nỗi đau của người dân khi đất nước bị thống trị, ông đã
nêu ra những hình ảnh không thể nào điển hình thêm nữa: “Thôi rồi mảnh đất Việt Nam/ Hung hăng anh bóp trong bàn tay tanh!/ Nước
tôi đang độ yên vui sống/ Mít ngát hương mùa, bưởi ngọt thanh/ Lúa nặng tình
quê, khoai luyến đất/ Không thương nhau lại giết nhau đành!/ Cắn răng tôi chịu
cực hình/ Vuốt râu anh hưởng công linh đồng bào./ Anh phân ly Nam, Bắc, / Anh
chia rẽ nghèo, giàu/ Nước non anh quậy tan tành hết/ Cho oán hờn nhau, giết lẫn
nhau.../ Người chết thì dại, người sống thì ngu./ Dân ngu vì bị làm ngu/ Đặng
dân làm ngựa, làm trâu suốt đời!”
60 năm, ngồi đọc lại
và xin được giới thiệu với bạn đọc những vần thơ “Cái gì bạo ngược là phi nghĩa/ Là trái lòng dân, nghịch ý trời/ Sắt
thép tinh ròng binh tướng dữ/ Không sao thắng được trái tim người!” của nhà
thơ Truy Phong mà tôi nghĩ rằng những
câu thơ trong ‘Một Thế Kỷ Mấy Vần Thơ” không
chỉ viết cho lịch sử VN trong thế kỷ đã
qua…!
Nhà thơ Truy Phong sinh năm (sinh năm 1925) sinh tại xã Thanh
Bình (Cù lao Dài), huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long mất năm 2005 tại quê
nhà. Các tập thơ đã xuất bản : Một thế kỷ, mấy vần thơ (1970), Thái bình trả lại
(1971), Mặt trời lên (1975).