Tác giả được giải thưởng tự răn đe “Trái tim sinh thời
nào thì tròn méo theo thời ấy/ Chắc hẳn người đời sau sẽ chê tròn, chê méo trái
tim ta”. Còn tác giả hụt giải thưởng tự khuyên nhủ: “Anh không hái nổi
mùa anh rồi, em ạ/ Chỉ vì anh đã vung nắm thóc anh vô trật tự/ Ngỡ góc bể chân
trời nào đều có lúa anh gieo/ Giờ đây lúa anh lên cùng với cỏ/ Anh gieo bão mà
gặt về chỉ gió/ Giàu cỏ cánh đồng thôi, còn nắm thóc vẫn nghèo”. Tất nhiên,
cũng có người vì chưa được giải thưởng mà nhói lên chút đau đớn ngọt ngào: “Những
vết thương gây ra bởi mùi hương, lâu lành hơn cả/ Chữa lành ư? Lại phải có mùi
hương/ May quá! Đây là vết thương không chảy máu, không có hình, không có sẹo/
Và anh có thể đi lại, tươi cười, dẫu bị tử thương”.
DÙNG THƠ CHẾ LAN VIÊN
BÀN VỀ THỊ PHI GIẢI THƯỞNG
LÊ THIẾU NHƠN
Khi những chuẩn mực văn hóa và đạo đức của xã hội đang phải
đối mặt với nhiều thử thách, thì các loại giải thưởng rất khó tìm được sự đồng
thuận. Và một sự thật không ai có thể phủ nhận là nền văn nghệ chúng ta đang vắng
bóng danh sư, vắng bóng những nhân vật mà tiếng nói của họ tạo được niềm tin
cho công chúng về giá trị nghệ thuật nhất định. Trước những bấn loạn thẩm mỹ
văn chương, chúng ta nhớ đến Chế Lan Viên, một nhà thơ bậc thầy có khả năng
dùng thi ca như một công cụ phê bình để nhận đường và mở lối cho sáng tác. Ngay
cả giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà Nước cũng liên tục có những mùa
trao giải nhiều tiếng bấc tiếng chì, hãy thử lật lại thơ Chế Lan Viên như ông từng
di ngôn: "Tôi chết rồi, thơ sau đó sẽ xanh hơn/ Cố nhiên đó là thơ nhân
loại khác/ Nếu có luân hồi, ta sẽ về, sẽ đọc/ Sẽ nâng làn cỏ lạ lên môi hôn",
biết đâu sẽ có được vài suy nghiệm nho nhỏ!
Hiểu được giá gạo, giá xăng không ngừng tăng lên, số tiền
kèm theo giải thưởng cũng tăng lên. Số tiền vài trăm triệu đồng, có thể không lớn
với doanh nhân túi bạc kè kè nhưng lại tương đối lớn với thi nhân mộng mơ trăng
gió. Số tiền ấy thật đáng phấn khởi giữa hoàn cảnh: "Chung quanh bọn
tham ô/ Xây biệt thự lớn nhỏ/ Còn lên lớp nhà thơ/ Cần chịu đựng gian khổ".
Kinh phí đã xong, còn tác phẩm thế nào? Không hề đơn giản,
vì bước vào giai đoạn kinh tế thị trường, ai cũng mơ hồ đoán được: "Bể đã
ra khỏi hồn thơ nhiều thi sĩ/ Sóng không còn trong lòng họ từ lâu/ Vầng trăng gọi
các thủy triều đã xế/ Gà vịt chuồng thay cánh trắng hải âu". Thế
nhưng, đến hẹn lại lên, vẫn phập phồng hy vọng: "Hương bay ở chỗ vắng trầm/
Thơ vang ở chỗ bặt câm ngôn từ".
Làng văn chương không ít những âm thanh ngân nga, tác giả dễ
thấy trên tivi và trên mặt báo, mà tác phẩm cứ thưa thớt dần. Những lời kêu gọi
làm đơn xin xét tặng giải thưởng vừa hoan hỉ vừa hồi hộp: “Bốn nghìn năm
chưa phải là ta đã cày sâu vào trang giấy lắm đâu/ Gié lúa nhiều thế kỷ cầm lên
còn lép hạt”. May mắn làm sao, một tiếng hô có trăm tiếng đáp, đơn đề cử và
đơn ứng cử khắp nơi bay về. Có đơn được chuyển từ tổ chức chuyên môn và có đơn
được chuyển từ chính quyền địa phương, đều cạnh tranh nhau một cách công bằng:
“Nghệ thuật đẻ ra ở chỗ giành hai lực/ Nước xô đi và xoắn lại ở chân cầu”.
Cứ thế, sự xét duyệt trải qua nhiều chặng gay cấn, hết hội đồng cơ sở đến hội đồng
cấp Bộ, rồi đến hội đồng cấp quốc gia: “Những câu thơ pháo – đất – đối – đất
vẫn phải qua trời bằng một đường cong/ Có những lúc câu thơ phải bắn cầu vồng/
Mà người nhắm vẫn là nhắm thẳng”.
Mỗi lần trao giải, những người đang sống không thể lãng quên
những người đã khuất. Có thể là sự bái vọng, có thể là sự tưởng niệm: “Có
nhà thơ để lại bộ lông vằn tên tuổi/ Các thế hệ sau đến độn vào đấy rơm và danh
vọng/ Thậm chí thêm cho con vật chết khô/ Cả một tiếng gầm”. Không sao, văn
chương tự cổ vẫn thế, cứ nhìn danh sách đề cử sẽ thấy “Có rồng, nhưng cũng
có cá rồng rồng, không phải rồng/ Có thơ, nhưng lại cũng có cái thẩn thơ, thơ
thẩn”. Đi sau những bóng dáng lồng lộng của Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn
Bính, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi,
Nam Cao...
không hề đơn giản chút nào. Người nhận giải kế theo phải lấy gì để khỏi ngượng
ngùng với tiền nhân chứ? Trường giang sóng sau xô sóng trước cách nào? Chế Lan
Viên tư vấn: “Tạo ra một giống thơ như một giống lợn nạc nhiều/ Có đùi to,
mông to, mười sáu cặp lườn, lắm vú/ Hôn phối nhiều loại thơ để đẻ ra loại thơ
ưu tú/ Những F1 mượt lông nhiều sữa, có nên chăng?”
Quần anh tụ hội, cái chiếu giữa làng nô nức chen chân, có đề
cử được công chúng hài lòng, có đề cử khiến công chúng băn khoăn: “Sợi chỉ
lòng anh nghèo có một màu/ Xe vào cái đa sắc của cuộc đời nên chói lọi/ Anh chửa
vội dệt đâu, hãy cần cù xe sợi/ Cho quấn chặt vào nhau trăm hình ảnh rạc rời”.
Và bất cứ cuộc hò reo nào, đôi lúc cũng chợt ngẩn ngơ vì chỗ trống các tài năng
không tham gia: “Phải ba triệu sóng gió của đời mới đúc nên châu ngọc/ Khốn nỗi,
đã là ngọc ư, thì lại dễ xa đời”. Đồng nghiệp và bạn đọc không biết nói gì
trước những tác giả vì lý do này hoặc lý do khác để không làm đơn xin xét tặng
giải thưởng. Đành thở dài chia sẻ bằng thái độ của thi hào dân tộc gửi gắm cho
cháu con: “Bất tử hay không, Nguyễn cóc cần/ Thiên tài quen sống đời mây cô
độc/ Tuổi tên là phù vân/ Ông chỉ mong ta bền một chữ tâm/ Nhỏ một giọt sương
người bên khóe mắt/ Cái Nguyễn chờ là giọt lệ hồi âm”.
Cờ đã treo, trống đã giục, ai thích thì ganh đua, luật chơi
rất rõ ràng. Tác giả đã đoạt giải thưởng Nhà nước rồi, thì tìm thêm tác phẩm để
ứng thí giải thưởng Hồ Chí Minh. Không có tập riêng khác biệt thì làm tuyển tập
chọn lọc: “Đất nước thừa những con sông Tiền Đường định mệnh/ Và dù anh chia
Nguyễn Du, Tố Như, Thanh Hiên máu thịt đời anh ra làm ba mảnh/ Thì giọt lệ trang
Kiều gom lại một mà thôi”. Náo nức hơn cả, là những tác giả bấy lâu nay xa
lạ với độc giả, vẫn tự tin liệt kê danh mục hàng chục tác phẩm đủ mọi thể loại,
dù có thể chính họ cũng hiểu: “Trăm câu thơ xóa đi cho một câu khỏi ném vào
trong gió/ Và chắc gì câu kia bay được tới bình minh”.
Đề cử thì vô tư, nhưng giải thưởng có hạn. Hội đồng giám khảo
bỗng mang gánh nặng nghìn cân, khi phải đóng vai trò những kẻ thưởng lãm thông
thái trước bài toán hóc búa: “Khi tất cả những người đọc anh đã bỏ đi/ Còn một
độc giả yêu anh và ở lại/ Anh có gì cho người kiên nhẫn ấy? Có còn chăng một vì
sao dành lại giữa đêm khuya/ Người ấy tìm ra ngôi sao mà anh hằng ngắm ấy/
Chính ngôi sao kia sẽ gọi trăm người đọc quay về”. Tất nhiên, Hội đồng giám
khảo có tiêu chí riêng và bản lĩnh riêng để cầm cân nảy mực cho cuộc chiến hào
hoa và lịch lãm nhưng cũng đầy thị phi: “Hãy nghĩ các vị thầy sẽ về đọc thơ
anh/ Đó là Nguyễn Du, Nguyễn Trãi/ Các vị thích gì? Thích anh không nhai lại
các thầy xưa/ Thích anh có văn phong thời anh, các vị chưa biết bao giờ/ Thích
biết chuyện thời anh/ Tâm hồn anh không có gì giống như tâm hồn các vị”. Và
chính Hội đồng giám khảo đang chau mày nghiêm nghị đong đếm nặng nhẹ lẫn những ứng
viên đang nắc nỏm mong chờ kết quả, vẫn tin chắc công chúng đang cày ruộng, công
chúng đang may áo, công chúng đang nấu cơm, mới có quyền phán xét cuối cùng: “Bài
thơ anh diễn lên cho người xem trước mặt/ Nhưng có người xem từ buồng trò, xem
ra he hé cánh gà/ Họ vừa xem, và nếu anh quên tuồng thì họ nhắc/ Mỗi câu thơ
anh đều từ suối họ sinh ra”
Ai cũng dễ dàng đồng tình: “Khi ta kỷ niệm Nguyễn Du chả
ích gì cho Nguyễn/ Chả qua để kẻ yêu thơ khỏi tủi trong lòng/ Ông đã hóa mây trắng
bay ngang trời hoài niệm/ Hóa ra Kiều cao gấp mấy đời ông”, nhưng đã thi thố
ắt phải có kẻ được người không. Tác giả được giải thưởng tự răn đe “Trái tim
sinh thời nào thì tròn méo theo thời ấy/ Chắc hẳn người đời sau sẽ chê tròn,
chê méo trái tim ta”. Còn tác giả hụt giải thưởng tự khuyên nhủ: “Anh không
hái nổi mùa anh rồi, em ạ/ Chỉ vì anh đã vung nắm thóc anh vô trật tự/ Ngỡ góc
bể chân trời nào đều có lúa anh gieo/ Giờ đây lúa anh lên cùng với cỏ/ Anh gieo
bão mà gặt về chỉ gió/ Giàu cỏ cánh đồng thôi, còn nắm thóc vẫn nghèo”. Tất
nhiên, cũng có người vì chưa được giải thưởng mà nhói lên chút đau đớn ngọt
ngào: “Những vết thương gây ra bởi mùi hương, lâu lành hơn cả/ Chữa lành ư? Lại
phải có mùi hương/ May quá! Đây là vết thương không chảy máu, không có hình,
không có sẹo/ Và anh có thể đi lại, tươi cười, dẫu bị tử thương”.
Như một lẽ thường tình của nhịp sống văn minh, trong thâm
tâm những người chưa được giải và những người chưa dự giải đều mong muốn vài bất
cập về cơ chế xét tặng sẽ được cải tiến ngày càng hợp lý: “Với con thuyền
xưa, Crixtốp Côlông tìm ra châu Mỹ/ Sao con tàu ngày nay vứt dáng cổ thuyền
xưa? Chả là tàu muốn trung thành hơn với bể/ Nội dung bể phải đâu muôn đời vẫn
thế/ Thay hình thức của thuyền đi, sẽ hiểu bể thêm mà!”
Các loại giải thưởng khác thì nhiều, mà giải thưởng Hồ Chí
Minh và giải thưởng Nhà Nước thì 5 năm mới có một lần. Dư luận ồn ào lên rồi trả
các tác giả về với bản thảo nhọc nhằn: “Đừng chờ câu thơ anh làm anh vĩnh cửu/
Anh như con nhện đòi dệt tơ tằm, sao được? Dệt nắng trời sao được? Làm sao câu
thơ anh lại lâu dài, trường cửu/ Hơn đời anh chóng vánh?”. Và lại viết, viết
lặng lẽ, viết bồn chồn, viết âu lo vì sứ mệnh người cầm bút: “Sau lưng anh
còn mênh mông nhân loại/ Đừng nghĩ mình là người đi cuối/ Phải để lại dấu chân,
nhành cây, viên sỏi/ Cho người theo sau không cô đơn”.
Văn chương thời hội nhập mỗi ngày mỗi nghiệt ngã, đòi hỏi những
tác giả khao khát kê cao tác phẩm Việt phải vượt lên trở ngại: “Cởi bỏ cái
cũ có khi tuột da, lòi xương, chảy máu/ Đất nước bùn lầy đẻ ra công nghiệp khó
khăn sao/ Trận đánh ấy ta trèo lên, tụt xuống rồi lại phải trèo lên/ Giữa cảng lớn
dầu khí ngày nay, con thương mẹ ngày xưa leo lét ngọn đèn dầu/ Mẹ lấy tay che
phía này, phía nọ cho trang thơ con được lặng/ Trong khi trang con viết ngày
nay đang chờ Gió Lớn ùa vào”.
Không thể nói khác, giải thưởng Hồ Chí Minh hay giải thưởng
Nhà Nước ngoài sự ghi nhận, còn là một thước đo và còn là một sự cảnh tỉnh giúp
mỗi tác giả nhắc nhở bản thân: “Để cho người ta có thể cúi xuống vuốt mắt tay
chân anh lạnh giá/ Không lợm mửa khi khiêng anh bỏ vào hòm/ Hôm nay anh cố gắng
tạo mùi hương trí tuệ/ Viết câu thơ sáng chói tâm hồn”.