Phùng Văn Khai viết về Thanh Tùng: “Cơ quan nơi
Thanh Tùng công tác, chắc là phụ trách một trang văn nghệ cũng ở gần ngay nhà số
8 Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đến cổng, dưới tán một cây si và đám bê tông lổn nhổn, ông
bảo: “Đợi mình ở đây một lát, mình xử lý đôi chút rồi ta về số 8”. Trong bóng
chiều chạng vạng, một Thanh Tùng vạm vỡ, phất phơ mái đầu bạc đang chầm chậm bước
về phía hành lang hun hút, thâm thẫm tối khiến cho tôi có một cảm giác khó tả.
Ngoài kia, dòng người đang xuôi ngược, xôn xao. Xa kia là biển cả mênh mông và
Thanh Tùng dù tài cao đức trọng cũng chỉ là một chấm nhỏ mà ông Tạo chắc gì đã
nhớ nổi cho nên cứ mặc phẩy tay đầy đọa. Kiếp người vốn mỏng và kiếp một thi sĩ
nào có khác gì cánh bướm nhỏ chập chờn bay qua con sông rộng trong sóng gió
khôn lường. Mỗi mùa hoa đỏ về/ Hoa như mưa rơi rơi/ Cánh mỏng manh tan tác đỏ
tươi/ Như máu ứa một thời trai trẻ...”
GẶP NHÀ THƠ “THỜI HOA ĐỎ" Ở SÀI GÒN
PHÙNG VĂN KHAI
“Phơ phơ đầu tóc bạc/ Lừng lẫy danh tiếng vang/
Nghĩa khí mây cao ngất/ Trời thu trăng sáng choang...”. Không hiểu sao, khi gần
sáng tỉnh dậy, trong tiếng gà nhu nhơ gáy nơi cây bông gòn của nhà khách số 8
Nguyễn Bỉnh Khiêm TP.HCM trong đêm Noel thì những câu thơ cổ trên trong Tam Quốc
Chí cứ ngân nga trong tâm trí tôi. Chiều hôm trước, tôi đã có buổi trò chuyện
say sưa với lão nhà thơ Thanh Tùng đến tận khuya.
Lứa chúng tôi cách sau nhà thơ Thanh Tùng ngót nửa
thế kỷ nên mọi thứ, tất nhiên kể cả văn chương đã là khác lắm. Nhưng ông quá dễ
gần, đến nỗi, tôi, lần đầu tiên được hầu chuyện và hầu rượu đã thấy mình như
hoàn toàn có thể nói thẳng băng những suy nghĩ, chuyện văn chương, nhất là những
“kị húy” trong làng văn nghệ với ông mà không cần phải rào đón, e dè.
Hôm ấy, nhà thơ Thanh Tùng đến vào buổi trưa bằng xe
máy khi chúng tôi đã bắt đầu cuộc nhậu. Các bạn văn nghệ có mặt đều rất trân trọng
ông nhưng dường như không phải ai cũng hiểu được nỗi lòng của nhà thơ, cho dù
thực ra Thanh Tùng là một người hết sức dễ hiểu. Tôi không dám hỏi ông cơn cớ
gì phiêu bạt phương Nam, bởi một người ưa hải hồ sông biển như ông thì điều đó
dường như là một lẽ đương nhiên. Câu trả lời đã có từ những bài thơ của Thanh
Tùng, từ cách sống và cách tổ chức gia đình rất đặc thù và trên hết là tấm lòng
của ông với thơ ca, với đời sống. Thời gian đã ưu ái hoặc bất lực trước ông, một
lão phu phơ đầu tóc bạc ở vào tuổi bảy bảy vẫn vững vàng như trái núi. Ông như
một khoang tàu lừ lừ xuôi ngược trong mịt mùng vần xoay của tạo hóa.
Nhà thơ Thanh Tùng lúc nào cũng tất bật dù có lúc,
như là lúc này đây, khi chiều đã tàn, đêm đã giăng ra những mảng sương, ông ngồi
bất động, im lìm, khuôn mặt hoang hóa xa xăm với những mảng đẽo gọt khu biệt chỉ
có ở mình. Tôi cảm giác lúc này, ông đang cồn cào nhớ biển, cồn cào nhớ về thời
trai trẻ. Nó đã qua thật rồi ư? Thời gian đã lạnh lùng bào mòn đi như bản tính
của nó. Thế nên, đừng mơ hồ cưỡng lại dòng lưu chuyển của thời gian.
Ánh mắt bất động của nhà thơ như một bức tường vừa
xa xôi vừa sừng sững. “Dưới màu hoa như lửa cháy khát khao/ Anh nắm tay em bước
dọc con đường vắng/ Chỉ có tiếng ve sôi chẳng cho trưa hè yên tĩnh/ Chẳng chịu
cho lòng ta yên - Anh mải mê về một màu mây xa/ Về cánh buồm bay qua ô cửa nhỏ/
Về cái vẻ thần kỳ của ngày xưa/ Em hát một câu thơ cũ...”. Ôi Thanh Tùng! Thời
trai trẻ lứa các ông luôn cựa quậy và nứt vỡ ra những chân trời. Nó đớn đau, dằn
vặt nhưng kiêu hãnh, thậm chí ngạo nghễ, khinh thị, luôn phá những cái cũ kỹ đi
để xây những lâu đài tư tưởng của mình mặc kệ đường xa dặm thẳm. Tôi bất chợt đọc
mấy câu thơ của mình vừa làm tặng anh Dương Nguyên Bình, một người rất yêu văn
chương cho ông nghe mà chẳng phải băn khoăn gì cả. Thơ ca luôn có tiếng nói
riêng. Lấm bụi giang hồ kinh giấc mộng/ Ngựa xe thành lũy cũng tàn hoang/ Ta về
cúi trước hai vầng cỏ/ Thăm thẳm cao xanh lệ ứ tràn. Ông im lặng. Thì ông đang
im lặng… Lúc trước, hình như tôi có nhẩm hát: “Anh mải mê về một màu mây xa...
Cánh buồm bay về một thời đã qua... Em thầm tiếc một câu thơ cũ... Về một thời
thiếu nữ... say mê..”.. Hình như không chính xác với ca từ, với lời thơ nhưng
ông im lặng.
Thơ Thanh Tùng từ ngữ đôi khi xộc xệch nhưng ý tứ và
thi vị của nó luôn xuyên suốt, xâu chuỗi và liên kết đồng nhất một cách lạ
lùng. Rất ít người có cách lo toan cho thơ, về thơ như Thanh Tùng. Ông là một
thi sĩ đích thực mà không cần phải bàn cãi như khi ta nhắc tới tên một nhà thơ
vang danh nào đó. Suốt một buổi chiều, chúng tôi lắng nghe ông nói và đôi lúc
giãi bày những suy nghĩ của mình với ông, đương nhiên về thơ, đương nhiên về đời
sống văn nghệ. Ông là người có tư duy nhanh và chuẩn xác như một nhà toán học.
Ai đó bảo nhà thơ hay lơ mơ là sai, đặc biệt với Thanh Tùng.
Đang ngồi đấy, đang lặng im như một pho tượng thì
ông bảo: “Mình phải về cơ quan hai mươi phút, xử lý bài vở ấy mà, định gọi điện
thoại nhờ nhưng đây là phần việc của mình, các cậu cứ đợi, mình sẽ quay lại”.
Tôi đứng lên chở ông đến cơ quan bằng xe máy. Trời chạng vạng, thành phố bắt đầu
lên đèn. Những cô gái ăn sương cũng vừa trang điểm vừa thập thò trong các con hẻm.
Cơ quan nơi Thanh Tùng công tác, chắc là phụ trách một trang văn nghệ cũng ở gần
ngay nhà số 8 Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đến cổng, dưới tán một cây si và đám bê tông lổn
nhổn, ông bảo: “Đợi mình ở đây một lát, mình xử lý đôi chút rồi ta về số 8”.
Trong bóng chiều chạng vạng, một Thanh Tùng vạm vỡ, phất phơ mái đầu bạc đang
chầm chậm bước về phía hành lang hun hút, thâm thẫm tối khiến cho tôi có một cảm
giác khó tả. Ngoài kia, dòng người đang xuôi ngược, xôn xao. Xa kia là biển cả
mênh mông và Thanh Tùng dù tài cao đức trọng cũng chỉ là một chấm nhỏ mà ông Tạo
chắc gì đã nhớ nổi cho nên cứ mặc phẩy tay đầy đọa. Kiếp người vốn mỏng và kiếp
một thi sĩ nào có khác gì cánh bướm nhỏ chập chờn bay qua con sông rộng trong
sóng gió khôn lường. “Mỗi mùa hoa đỏ về/ Hoa như mưa rơi rơi/ Cánh mỏng manh
tan tác đỏ tươi/ Như máu ứa một thời trai trẻ...”
Thơ ông, phải nói là đã tự tiên liệu về chính bản
thân mình. Một tiên liệu có phần nghiệt ngã quá nhưng cũng ngạo nghễ xiết bao.
Tôi như thấy đoàn quân chữ nghĩa của ông khiêng một sợi chỉ máu, đêm hành quân
ngày nghỉ, mặc kệ những xưng tụng, thị phi, thậm chí là cả sự tuyệt vọng. “Sau
bài hát rồi em lặng im/ Cái lặng im rực màu hoa đỏ/ Sau bài hát rồi em như thể/
Em của thời hoa đỏ ngày xưa/ Sau bài hát rồi anh cũng thế/ Anh của thời trai trẻ
ngày xưa...” Lời bài hát như cứa vào lòng kiêu hãnh của những người đàn ông
phiêu bạt, mà ông chính là một điển hình.
“Thời hoa đỏ” được viết vào khoảng năm 1972 và theo
Thanh Tùng, khi ấy cuộc hôn nhân của ông cùng người vợ ở Hải Phòng đứng trước
nguy cơ đổ vỡ. Ông giải thích thế thì anh em chỉ biết là vậy chứ thực ra “Thời
hoa đỏ” không phải chỉ để giải quyết cho sự đổ vỡ của một cuộc tình. Nó là mẫu
số chung của những đớn đau dằn vặt về những cái chưa gặp nhau của những người
khác giới, của loài người. Tôi vẫn cho rằng, từ hàng ngàn hàng vạn đớn đau số
phận mà trong ấy không riêng gì tình yêu đã mượn Thanh Tùng để thốt lên Thời
hoa đỏ.
Nhưng Thời hoa đỏ cũng có thể hiểu là một tri ân của
sự thăng hoa trong tột cùng đau đớn của thời kỳ ông ở Hải Phòng. Ông từng nói:
“Tôi đã gắn bó với Hải Phòng gần trọn cuộc đời. Tôi đã làm thơ khi đẩy xe bò thời
thanh niên xung phong. Tôi đã làm thơ trong khi quai búa thời công nhân. Tôi đã
làm thơ trong khi tay trắng thời bị cho về hưu với vỏn vẹn hai chỉ vàng. Và tôi
đã làm thơ trong khi áp tải thời nhọc nhằn kiếm sống qua ngày. Hải Phòng còn
nguyên giọt nước mắt chưa khô, bạn bè cực khổ, văn chương đọa đày. Nơi ấy, tôi
có một căn nhà nhỏ để anh em thi phú tụ bạ. Nơi ấy tôi có hạnh phúc ngắn ngủi
và dằng dặc đổ vỡ. Những bài thơ đã giữ gìn dùm tôi chút khói sương chiều Tam Bạc,
chút nắng gió Cát Dài, chút xa vắng Cát Bụi, và hàng trăm gương mặt người quen
đang nhòa dần theo ký ức”!
“Năm xưa/ Các anh mời tôi ăn con cá đánh trên đảo
Cát Bà/ Tôi vẫn nghĩ những con cá ấy có thể đến từ mặt biển Trung Hoa/ Nay các
anh đã đi xa/ Vẫn làm nghề đánh cá/ Tôi lại nghĩ những con cá ấy/ Có thể đến từ
mặt biển Cát Bà/ Bởi những con cá có bao giờ phải mang hộ chiếu” (Thư gửi người
đánh cá họ Hoa). “Nơi ấy tôi còn nguyên tất cả/ Từ vệt trời thơ thời giá lạnh/
Đến viên sỏi cũ dấu chân mòn/ Tôi đem khâu lại từng hoang vắng – Tôi còn hẹn với
muôn năm/ Với vai người dầu mỡ/ Với bức tường của nắng/ Với phố chiều ăm ắp giọng
khơi xa - Ở nơi ấy còn bao bí ẩn/ Với người qua một lần còn nhớ mãi/ Những khoảng
tối tôi bị dìm xuống đáy - Ở nơi ấy tôi còn nguyên tất cả/ Tình yêu gửi nguyên
trong trái tim người/ Tôi trong gió và trong nắng/ Sôi trong những lửa lò nung/
Ai cũng gọi tôi về, tôi biết lắm/ Tôi cần cho cả mặt sông đêm/ Cho từng trái
chín/ Cho khoảng trời khuya bớt nhục nhằn – Tôi vẫn gọi về từng cánh cửa/ Với từng
bánh xe lên dốc nặng nề/ Tôi vẫn gọi về đêm đêm xứ sở/ Tiếng vọng vang trùng
trùng cơn nhớ/ Hải Phòng ơi” (Hải Phòng ơi!). “Mai tôi đi rồi/ Tôi có khóc đâu
mà gió ướt/ Mà nắng rát nên tôi mặn chát/ Mai tôi đi rồi/ Để lại đây tiếng búa
khắc vào hồn phố... Tôi đã sống không rụt rè, sợ hãi/ Sao bây giờ ngần ngại lúc
chia xa!/ Tôi đã bị ít nhiều phản phúc/ Sao bây giờ toàn nỗi nhớ thương sâu!...
Mai ra đi đến một phương trời/ Tôi có thể làm gì như thế nữa/ Máu tôi còn đủ đỏ/
Để phương trời nơi ấy cháy thành thơ” (Hải Phòng lúc ra đi).
Không phải ai cũng biết Thanh Tùng luôn yêu Hà Nội đến
cháy lòng. Từng là “Nhà thơ áp tải” (chữ của nhà thơ Trần Nhuận Minh) lang bạt
kỳ hồ khắp mọi miền đất nước, yêu Hải Phòng như máu thịt nhưng trái tim ông,
khi ở những nhịp đập da diết nhất lại dành cho Hà Nội. Ông từng nói: “Hà Nội và
tháng ngày lang bạt đối với tôi đã trở thành nỗi đam mê chuyển dần sang niềm tiếc
nuối. Khi tôi ngồi chọn lại những bài thơ mình viết về Hà Nội, bỗng thấy ký ức
bám từng mảng rêu xanh lên bao nhiêu khoảnh khắc chấp chới hạnh phúc và ngộ nhận”.
Nhạc sĩ Phú Quang đã mượn vài lời thơ của Thanh Tùng để phổ nhạc: Ca khúc “Hà Nội
ngày trở về” từ bài thơ “Hà Nội” và ca khúc “Mùa thu giấu em” từ bài thơ “Em và
thu”.
Hà Nội nhờ bóng dáng bạn bè cũ mà liễu Hồ Gươm còn
hiện về trong tâm tưởng. Hà Nội nhờ mối tình sương khói mà gió Hồ Tây còn giật
thành cơn bão trong thương nhớ khôn nguôi... Hà Nội ơi, tôi đã cất giữ người cẩn
thận/ Như dưới làn da kia dẫu đã héo nhàu, máu vẫn âm thầm chảy/ Hà Nội ơi, nguồn
mộng mơ dày như cỏ mùa xuân/ Mỗi khi tôi thấy mình xơ xác/ Tôi lại về đánh cắp/
Dẫu một chút bóng đêm trên đường phố Khâm Thiên... Vội vã trở về, vội vã ra đi/
Chẳng kịp nhận ra từng con phố/ Nhưng trong tôi vững bền đến thế/ Những chiếc
lá nhìn tôi vẫn mắt tuổi học trò... (Hà Nội).
Thơ Thanh Tùng có một đặc tính là những người bình
phẩm tưởng nắm bắt được nhưng thực ra rất khó nắm bắt, tưởng mô tả để tán tụng
hoặc gợi mở ra một điều gì cũng dường như vô ích bởi một điều là tự thân các
câu thơ của Thanh Tùng đã nói hết những điều cần nói, cả những điều chưa nói
cũng đã ngân lên, gợi ra và đánh thức những miền xa khuất lấp. “Tôi vẫn về Hà Nội
của tôi/ Sau những ngày dài khô khốc/ Để thẫn thờ uống từng vết nắng mưa/ Chạy
mệt nhoài trên những quảng trường sạm gió/ Mỗi lần ra đi/ Nặng nề như có chửa/
Và vội vàng như một kẻ tham lam/ Vì bất cứ vòm cây nào trên những đại lộ/ Cũng
có thể đòi tôi trả lại màu xanh” (Hà Nội).
Tôi cũng không thấy ai yêu Hà Nội như kiểu của Thanh
Tùng, vừa như chiếm lĩnh vừa như hãi sợ mơ hồ một điều gì đang xảy đến với từng
tâm tư, tâm trạng và hành trạng tâm hồn ông. “Em đạp lên tất cả/ Rồi ngã vào
anh theo cách ngã của mùa thu/ Rồi hôn lên anh theo cách hôn dài của gió/ Thấm
vào anh, vật vã trên anh/ Bứt xuống lòng anh bừa bãi lá vàng... Da thịt em đâu?
Mềm dịu em đâu?/ Anh hốt hoảng bới tìm trong lá quẩn/ Trong những vòm cây vun
vút chuyển màu/ Trong những vạt bụi bồng bềnh ảo giác/ Chóng mặt khi bất ngờ đổ
xuống/ Cả một trời vô tận sắc vàng/ Nơi mảnh lá dấu màu mắt em sầu đắng/ Gió đến
ào cuốn phía xa xăm” (Em và thu).
Xin dành những lời từng bộc bạch của nhà thơ Thanh
Tùng cho đoạn kết của bài viết nhỏ này: “Cả cuộc đời nếu có chút gì đáng gọi là
thu hoạch, thì chỉ có thơ. Tôi đã làm thơ từ tuổi trẻ khốn khó và vẫn làm thơ
trong tuổi già túng thiếu. Tôi đã vì thơ đôi lần rơi nước mắt. Thơ đã vì tôi an
ủi phút giây yếu mềm. Thơ cho tôi chút tiếng tăm, và dìm tôi mãi nghèo khổ và bất
hạnh. Diễm phúc lớn nhất của đời tôi, thật kỳ lạ, cũng được mang lại từ thơ”...