Tìm
người dưng, được người dưng, mất người dưng, phép toán tình yêu giờ đã thành vô
định, một cộng một bằng không, chị đã trở về tìm lại chính mình trong cái mênh
mông cô đơn vỗ chiều lên biển vắng mà hát khúc độc hành: “Nghiêng mình hong gió
biển/ Sóng dỗi hờn xô nhau/ Cát nhẫn nhượng im tiếng/ Tình biến thể bạc màu/ Phố
triệu người lại qua/ Người quen rồi người lạ/ Người đến rồi lại xa/ Me nhiều lần
thay lá/ Ta độc khúc tìm ta” ( trong bài Ta- Tìm ta). Không những chị luôn đau
đáu với nỗi niềm riêng, để tìm ra những thấu cảm cho thơ, cho đời, mà chị còn
nhìn thấy muôn hình vạn trạn cái khổ đau mà trời đất đã không thương đem đến
cho con người: “Lũ giận đời, lũ giận ai/
Ùn ùn kéo đến thiên tai cho người/ Nhà tan trong ngấn lệ trời/ Người như chiếc
lá cuốn trôi bềnh bồng”.
Người đàn bà làm thơ bằng trái tim
nhân hậu
XUÂN
TRƯỜNG
Đi trong
nắng gió Sài Gòn, hòa mình vào nhịp sống vội vả của thành phố đông dân nhất nước
này. Những đa đoan, những toan tính, những hối hả áo cơm thúc giục con người
quay như chong chóng đến nỗi không còn nhìn nhận kịp thời những giả tạo, những
ngụy trang, giữa cá nhân và tha nhân. Nhất là trong lĩnh vực tình yêu. Cái đề
tài muôn thuở của hân loại. Làm sao ta đếm được có bao nhiêu người phụ nữ đã và
đang chia tay với cuộc tình của họ giữa thành phố này. Mặc dù đó là những điều đã xảy ra ngoài ý muốn
của họ, vì rằng người đàn bà luôn luôn tha thiết được yêu, họ cưng như cưng trứng,
hứng như hưng hoa cái hạnh phúc ban đầu tuyệt vời ấy. Vậy mà phải chia tay, phải
xoay vần theo con tạo, thân phận đưa đẩy cuộc đời vào vòng xoáy của tồn tại xã
hội. Đặng Tường Vy- Người phụ nữ giỏi dang, tài sắc vừa đủ để chị định hướng
cho mình một hành trình đi đến tương lai như bao nhiêu người phụ nữ khác. Thế
mà gian truân, thế mà hồng nhan, thế mà tài mệnh tương đố. Chị đã không may lạc
vào dòng xoáy ấy.
Đã
biết rằng đời người có những khoảng trống không cần phải lấp đầy, nhưng sự đổ vở
của một cuộc tình khi đã vẹn câu thề với nhau dẫn đến sự hụt hẩng mênh mông vô
cùng biết bao nhiêu lượng thời gian cần thiết để lấp cho đầy. Những mất mát cứ
còn mãi trong chị . Chị đang lang thang trong khoảng trống của đời mình thì gặp
thơ, chị yêu thơ rồi làm thơ, duyên nợ với thơ. Lại thêm một lần nữa cho phép
ta xác quyết rằng khi tột cùng của hạnh phúc hoặc là khổ đau thì con người vẫn
đến với thơ và thơ tồn tại như một đấng thiêng liêng cứu rổi linh hồn thiên hạ.
Có lẽ những trải nghiệm hành trình đã làm nên một thứ chất liệu cho thơ Đặng Tường
Vy nhẹ nhàng mà sâu lắng, âm thầm mà dữ dội, tục lụy mà thanh tao: “Nhẹ nhàng
thương nhẹ nhàng đau/ Nhẹ nhàng quay gót chào nhau nhẹ nhàng”, hoặc là: “Trăm
năm con sóng ru đời bạc/ Lành, dữ, đục, trong…cũng rả rời”, và đây nữa: “Hạ về
con nắng se lòng nhớ/ Hồn ngẩn ngơ hồn lạc
cõi riêng” và dữ dội hơn “Xin anh một chút thật thà / Để cho em được đàn bà với
anh”. Đấy là những câu thơ chị đã mở cửa cho ta vào nhìn tận mắt những đợt sóng
ngầm trong tâm hồn chị đang vỗ đến vô biên những khát vọng yêu thương, những
giùng dằng thân phận, những đa đoan cuộc đời. Những đợt sóng ngầm ấy càng ngày
càng mở rộng biên độ dao động căng nức tâm tư, để rồi bật ra những âm thanh bén
nhọn đến xé lòng: “Xin đừng nói tiếng chia xa/ Trong vàng lá đổ sinh ra xanh mầm/
Tận trong sâu thảm lặng câm/ Trăm năm nhịp đập nói thầm yêu anh”, hoặc là: “Tình
em nốt nhạc không lời / Nhẹ nhàng len lỏi tình rơi giếng tình/ Con tằm khát lá
tồn sinh/ Riêng em khát tiếng ơi mình mình ơi” ( trong bài Xin đừng bước vội)
và đây nữa: “Gió ghì hôn môi em/ Mây chung thủy bốn mùa/ Mưa thủ thỉ nhiều đêm/
Anh tình còn mặc cả” ( trong bài Chiều vàng câm nín).
Tìm
người dưng, được người dưng, mất người dưng, phép toán tình yêu giờ đã thành vô
định, một cộng một bằng không , chị đã trở về tìm lại chính mình trong cái mênh
mông cô đơn vỗ chiều lên biển vắng mà hát khúc độc hành: “Nghiêng mình hong gió
biển/ Sóng dỗi hờn xô nhau/ Cát nhẫn nhượng im tiếng/ Tình biến thể bạc màu/ Phố
triệu người lại qua/ Người quen rồi người lạ/ Người đến rồi lại xa/ Me nhiều lần
thay lá/ Ta độc khúc tìm ta” ( trong bài Ta- Tìm ta). Không những chị luôn đau
đáu với nỗi niềm riêng, để tìm ra những thấu cảm cho thơ, cho đời, mà chị còn
nhìn thấy muôn hình vạn trạn cái khổ đau mà trời đất đã không thương đem đến
cho con người: “Lũ giận đời, lũ giận ai/
Ùn ùn kéo đến thiên tai cho người/ Nhà tan trong ngấn lệ trời/ Người như chiếc
lá cuốn trôi bềnh bồng”. Nhiều khi con người đã tự gieo rắc khổ đau lên chính
mình: “Sừng tê / Cao hổ / Hương chồn/ Tiếng la vang vọng xé hồn quê hương/ Lũ về
gieo rắc tai ương / Kẻ nhà cao rộng đứng giương mắt nhìn”. Ở đây chị lại thấy
tâm tư mình cháy bỏng trước sự truy sát của con người làm cho loài thú cũng
không còn những bước chân đi hoang trong khu rừng tự do của mình.
Trong
những tháng ngày trống không, trong lang thang đâu đó chị bỗng giật mình: “Đừng
hóa kiếp thiêu thân / Giết mình trong ảo ảnh/ Đừng khát đời tình nhân/ Đêm chiếu
giường hoang lạnh / Em sợ loài cá cảnh / Khóc ngục tù trăm năm / Soi bờ mi ráo
hoảnh / Lạc lầm chốn cùng thâm” (trong bài Xin đừng làm lữ khách). Có những ràng
buộc yêu thương đã từng xác định miền tự do cho nhau của hai người đang yêu. Đó
là sự nuôi dưỡng tình yêu, không là nơi cá chậu chim lồng, ngục tù trái tim,
làm cho “đời hết vui khi đã vẹn câu thề”. Đây cũng là một triết lý của tình yêu
vậy. Nếu chúng ta chủ quan thì sự ràn buộc quá đổi đôi khi dẫn đến chia tay.
Cõi vô thường là cõi chết, nơi có giấc miên trường của nhân loại, thế mà có một
loài hoa uống cạn vô thường rồi mới nở phải chăng hoa Tường vy uống cái chết
vào để nở ra sự sống “Lòng em nung nấu / Bến đậu yêu thương / Nuốt cạn vô thường
/ Hoa Tường Vy nở”.( trong bài Điền vào trang vở) chị đi giữa có, không, sống,
chết như vậy làm sao không bé bỏng bồng bềnh và chuyển tải đến chúng ta những cảm
xúc lạ của thi ca.
Đã
có lúc chị vô vi muốn mượn cửa thiền để chôn lấp mạch sầu thương và phôi pha những
nỗi niềm tâm tư: “khánh ngân động trí lay / Chồi giác ngộ bung cánh / Quán trọ
thôi nài nỉ / Vai gầy rời quang gánh / Một lần ngộ sắc không / Chén hương đời bọt
bóng / Phù sa khuôn sáo rỗng / Gặt hái mùa rêu phong” ( trong bài Mùa rêu
phong). Rồi có lúc chị kiêu bạc muốn làm những việc lớn lao như chẻ đôi ngọn
núi, tác cạn sông sâu và biển cả để tìm chân lý yêu thương nhưng rồi cũng không
thấy đâu : “Tôi muốn chẻ đôi ngọn núi tìm viên sỏi thật thà/ Không thấy / Tôi
tác cạn sông sâu / Tôi băng qua biển rộng / Tôi chới với hụt hẩng và tuyệt vọng…
Tôi chợt hiểu ra tất cả / Thôi / Không tìm kiếm nữa” (trong bài Bước về phía
trước).
Ngày
xưa Xuân Diệu đã cảm xúc sự gần gủi nam, nữ qua những câu thơ như: “hãy trộn
nhau hai mái tóc ngắn dài hoặc Hãy nghe đây đôi hàm ngọc răng”. Ngày nay đã nhiều
lần tôi gặp các nhà thơ trẻ dùng hình tượng cỏ để nói lên cảm xúc ấy mới nghe
thì xa, nhưng lại rất gần, rất thanh tao nhưng lại khiến cho ta giật mình: “…Tường
rêu trách kẻ đầu môi / Ngày xưa cỏ mặn hứa rồi lại quên / Lạc lòng lạc cánh
chim Quyên / Về phương trời lạ nhớ quên bãi bồi / Đêm nay gió thổi ngang đồi /
Hỏi chăng cỏ rối còn lời trăm năm” (trong bài Còn lời trăm năm) .
Đặng
Tường Vy là bút danh của Đặng Thị Lụa, thật vậy chị và thơ chị cũng mềm như lụa
vậy. Từ các tập thơ “Giọt sương khuya”, “Lá thu Phai” đến “Sóng ngầm” là những
thông điệp bình yên chị gửi đến cho chúng ta những vui buồn, những thăng trầm,
những được mất của cuộc sống. Buồn mà không giận, không thù hận, thơ đã mở lòng
chị ra với tha nhân, với thiên nhiên với đa đề tài, thể loại, nhiều cung bậc cảm
xúc. Trong tập “Sóng ngầm” này chị có một bố cục rất riêng, đọc nhiều nay tôi mới
thấy đó là chị dùng một tản văn rất ngắn thay cho lời bạc ở phần cuối tập thơ với
tựa đề “Chuyện đêm khuya”. Tôi không thể nói hết những gì phải nói cho thơ Đặng
Tường Vy, xin giành lại sự cảm nhận cho quý vị. Tôi tin rằng nếu chịu khó trong
lao động bản thảo thì thơ Đặng Tường Vy sẽ khởi sắc hơn nhiều./.