Nhớ một cuối năm rét
mướt, tao ngộ trên đất Cao Bằng, nhà thơ Trần Hùng từng trả lời một thắc mắc
của người viết bài này về thơ anh: “Anh không làm thơ. Vì anh không nghĩ thơ
lại là thứ công việc để anh phải làm hoặc có thể làm. Với lại, cứ nói làm thơ làm
thơ, nghe sao vất vả nặng nhọc quá”. Nói vậy, và chỉ vậy thôi, rồi Trần Hùng
cười, mắt nheo nheo. Con mắt có đuôi, ánh lên gương mặt thư sinh mảnh mai một vẻ tươi tắn
trẻ trung đến lạ, dễ khiến cho nhiều người mới gặp Trần Hùng lần đầu khó đoán
biết anh đã vào tuổi ngoại lục tuần, và đã “hưu quan” sau một thời gian dài ngồi
ghế lãnh đạo đầu tỉnh ở miền núi non giáp biên này.
TRẦN HÙNG THƠ VÀ NHỮNG GIẤC MƠ THƠ
HOÀI NAM
“Không làm thơ”,
“không nghĩ thơ là thứ công việc để phải làm hoặc có thể làm”, thế nhưng từ năm
1991 đến nay, Trần Hùng đã ấn chứng tư cách thi sỹ của mình bằng việc cho ra mắt
độc giả vài thi tập: “Gọi bạn” (1991), “Mơ quê” (1998), “Vườn khuya” (2015), và
“Thảm thắc” (2015). Không nhiều, nhưng cũng không ít. Đủ cho kẻ ưa lý sự phải
băn khoăn: không làm thơ, vậy từng ấy tập thơ Trần Hùng làm thế nào lại có mặt
trên đời? Để hóa giải mối băn khoăn này, có lẽ, cần phải nghĩ về thơ và cái sự
“làm thơ” trong quan niệm cũng như trong thực hành của Trần Hùng theo cách
khác. Thơ, với anh, không phải là một danh từ, tức nó không chỉ/ trỏ một loại vật
thể mà người ta có thể có được bằng lao tâm sáng chế hoặc gia công tạo tác.
Thơ, chính là một động từ, chỉ/ trỏ một trạng thái sống, một hoạt động sống thường
trực và tự nhiên của Trần Hùng, tự nhiên như thở, như nghĩ, như cảm giác. (Tôi
dùng cụm từ “Trần Hùng thơ” trong nhan đề bài viết là theo nghĩa này). Mỗi bài
thơ, do vậy, không phải như một sản phẩm của nỗ lực “làm” ra, mà đơn giản chỉ
như là sự định dạng hóa bằng ngôn ngữ cho một góc, một mảnh, hoặc một khoảnh khắc
hay một thời đoạn mà nhà thơ đã “thơ” mà thôi. Chú ý đến điều này, ta sẽ cắt
nghĩa được tại sao nhiều bài thơ của Trần Hùng lại mang cái vỏ hình thức (vỏ
hình thức, tôi nhấn mạnh) của những diễn ngôn đời thường: ngắn gọn, không đều đặn
về số chữ giữa các câu, không tựa vào thể vào vần, không ngại nương vào kể vào
tả, không loại trừ những chi tiết lặt vặt thuộc về sinh hoạt nhân quần. Chúng tự
nhiên như những gì đã thực diễn ra trong một ngày thường: “Căn phòng tập thể/
hơn mười mét vuông/ mưa đánh đáo trên giường/ ni lông che màn một/ hai đứa trẻ
mừng nhà ướt/ đuổi nhau cười/ bố ngồi/ lặng im hút thuốc” (Ngày thường).
Không thể đơn giản hơn, cảnh nhà nghèo mưa dột. Nhưng không
đơn nghĩa. Hình ảnh ông bố ngồi lặng im hút thuốc trong khi hai đứa trẻ đuổi
nhau cười như thể mừng nhà ướt đã thực sự nói được nhiều hơn cái nghĩa mà từ điển
cung cấp cho văn bản. Sự đồng hiện hai hình ảnh trong một khoảnh khắc đã vạch
ra cùng lúc nỗi ái ngại, niềm thương cảm, sự cam chịu, những toan tính, và cả
những nung nấu quyết tâm thay đổi hoàn cảnh của người trong cuộc. Nói theo chữ
cinema, đó là nghệ thuật dựng cảnh. Và trong nghệ thuật này, Trần Hùng đã cho
thấy anh còn khá nhiều thủ pháp đắc địa. Tôi sẽ lấy thêm ví dụ bằng một đoạn
trong bài “Giao thừa”, bài thơ mà cố thi sỹ Dương Kiều Minh từng đánh giá rất
cao: “Mẹ đứng trước bàn thờ/ rồi tới ngồi bên lửa/ để đun cho nồi nước nóng
lên/ rồi lại đun cho nóng lên/ ngoài hiên/ những bông lửa trên trời đỏ rực/ mẹ
chợt nhận ra/ mình còn nhiều đứa con/ chúng ra đi đã lâu mà không về/ sao lại
như thế nhỉ?” (Giao thừa). Một loạt hành động của người mẹ được dựng nối tiếp
nhau trong đoạn thơ này: đứng, ngồi, đun nước, (rồi lại) đun nước… đã diễn tả hết
cái cảnh người già một mình lụi cụi với tâm trạng thẫn thờ như mê mụ, để cuối
cùng ba chữ “chợt nhận ra” bùng vỡ một thảng thốt: những đứa con của bà đã lâu
không về. Sự bùng vỡ ấy được đặt trên cái nền của “những bông lửa trên trời đỏ
rực”, và đặt trong hình dung về mẹ của đứa con đang ở nơi “xa một ngàn cây số”,
vào đúng thời khắc giao thừa linh thiêng. Cho nên, chủ âm của bài thơ không phải
là tình mẹ, mà là nỗi con, nhớ và thương quặn thắt, và nhuốm một màu ngậm ngùi
ân hận…
Trần Hùng còn nhiều nữa những bài thơ gây được xúc động về
các mối quan hệ người và các loại tình cảm nhân tính phổ quát. Nhưng với người
viết bài này, đó vẫn chưa là mạch chính, chưa là chủ lưu, chưa là điều đáng chú
ý nhất về Trần Hùng thơ. Chiếm vị trí ấy, có lẽ phải là những bài thơ hiện diện
như sự in dấu của những giấc mơ: “Hoa cải vàng bay bay trên sông/ dòng sông im
mơ mơ cánh đồng/ cánh đồng thơm như tóc/ nồng nàn như tóc/ râm ran mưa mưa nước
trong lưa thưa/ người đi như sương gót sương tinh khiết/ người như là cây da mồi
nảy lộc/ này quần lụa chanh này áo hoa chanh/ này ru bánh xe nan hoa lách tách/
cay cay hương khói bến xuân” (Sương hương bay). Không cần tác giả phải thành thật
rào trước rằng “tôi chìm vào một giấc mơ và trong mơ tôi thấy…” thì những hình ảnh
xuất hiện trong bài thơ vẫn cho phép ta nghĩ đến những hình ảnh của một giấc
mơ. Hệ thống từ láy được sử dụng dày đặc ở đây (bay bay, mơ mơ, mưa mưa, cay
cay, nồng nàn, râm ran, lưa thưa, lách tách) cùng sự áp đảo của những chữ
thanh bằng đã tạo nên một giai điệu nhịp nhàng, êm dịu như ru, những sắc nét của
cảnh cũng được mờ hóa, có xu hướng tan nhòa vào nhau để làm thành một tổng thể
mơ màng, đầy quyến rũ. Có thể nói, bài “Sương hương bay” rất giàu nhạc tính này
chính là một giấc mơ-thơ-mùa xuân thật đẹp của Trần Hùng. Mơ, như thế, không nhất
thiết là một dạng hoạt động tinh thần chỉ diễn ra khi người ta đang ngủ. Mơ còn
là cách để nhà thơ ý thức về thực tại và chiếm lĩnh thực tại cho riêng mình (việc
này không liên quan gì đến giấc ngủ sinh lý).
Trong những giấc mơ thơ của Trần Hùng, trăng xuất hiện khá
nhiều. Trăng không chỉ là yếu tố thuộc về khung khổ của giấc mơ, mà trăng còn
được vật thể hóa, và được hóa thân thành tâm hồn của vật thể trong sự đối ứng với
con người: “Dắt tay em vào rừng trăng/ rừng trăng thảm thiết/ hồn trăng thinh
khiết/ người làm cây trăng” (Trong vườn khuya). Chìm vào không gian trăng mơ
siêu thực ấy, như được mặc khải, thi sỹ nhận thấu những sự thật cốt lõi: “nếu
em còn mơ thấy anh/ hãy cầm sợi tóc vương trên gối/ gieo xuống/ cây đêm sẽ mọc
lên/ cây đêm cần giọt nước mắt yêu/ và vì thế cây đêm sẽ héo” (Trong vườn
khuya). Cây đêm sẽ héo, bởi sẽ không có giọt nước mắt yêu nào giành cho nó. Đó
là sự thật, thật như định mệnh của thi sỹ là phải mang cây thập giá cô đơn suốt
cuộc đời. Cô đơn trong không gian, và cô đơn cả trong thời gian, luôn luôn một
mình sau những tuyệt vọng xóa bỏ xa lạ: “chúng mình xa nhau – một tiếng thở
dài/ chúng mình xa nhau – một đêm sâu lắm/ mơ thành hai giọt sương/ mơ thành
hai viên sỏi trắng/ mơ vết thương không liền da, mơ cánh chim ngày ẩm ướt/ mơ
đêm trăng không vòm cây ẩn nấp/ mơ mùa không tên” (Trong cơn đau). Giữa cái thế
giới ấy, để trái tim thi sỹ có thể neo trú và tìm được cho mình sự bình yên tạm
thời, chỉ có một miền: đó là ký ức về nguồn, về cái ngày xưa phiếm định, về lúc
mà mọi vật mọi sự vẫn còn nguyên khối, tươi ròng. Thơ Trần Hùng, do vậy, có thể
nói, là lớp lớp những giấc mơ của mất mát và kiếm tìm “ngày xưa”, “ngày ấy”,
“ngày nào”: “Về đây/ những dấu chân lấm láp phù sa/ nắng hanh hao vườn chè vạt
mía/ qua thác cao bão nước/ niềm trinh tĩnh vỡ òa/ ngày ấy/ ve không miên man
như bây giờ/ vẫn còn khoảng trống cho tiếng gióng cửa – trâu về chuồng/ tiếng
quạt muỗi của mẹ ta mỗi tối/ tiếng của những cánh dơi/ ngày ấy – lâu rồi” (Thời
gian). Và: “Cánh bướm vàng bay bay/ phấn hoa cải vàng bay bay/ cá trăng thiêm
thiếp/ ngó sen thiêm thiếp/ ai còn nhớ rõ/ những ngón tay đồng trinh lấm bùn từ
khi nào” (Cố hương). Hoặc: “Người bốc mộ đi về phía chân trời/ còn tôi với hình
hài người yêu tôi/ niềm kiêu hãnh của tôi – cái đẹp thiên thần tới đây rồi/ bạc
trắng thời gian/ nhắm mắt thờ mùa thu ấy/ trong thịt da mơn mởn ngày nào” (Cơn
mơ).
Trần Hùng khởi những giấc mơ thơ của mình quãng cuối những
năm 1980, đầu những năm 1990, đúng vào lúc thơ Việt Nam hiện đại, với làn sóng
của những Trúc Thông, Dương Kiều Minh, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Quang Thiều,
Nguyễn Linh Khiếu, Nguyễn Việt Chiến v.v… đang bắt đầu chuyển mình, rồi tăng tốc,
để xác lập một hệ hình thẩm mỹ thi ca mới. So với những tên tuổi kể trên, Trần
Hùng lặng lẽ khiêm tốn hơn, ít gây ồn ào chú ý hơn. Nhưng dù vậy, vị tất Trần
Hùng đã không hết mình trên con đường thơ mà anh chọn, như một con đường sống?
“Chạm vào lưỡi lam/ bướm không bay nữa/ nhì nhạch giữa hoa/ nắng nhỏ màu mười
giờ” (Rã cánh). Là Trần Hùng tự họa mình giữa thơ đấy chăng? Tôi tin thế.
Nguồn: Tinh Hoa
Việt