Thi sĩ Đinh Hùng nổi tiếng rất sớm trong làng văn,
làng báo Hà Nội, ông là em rể của thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Thi sĩ Đinh Hùng nổi
tiếng về thơ nhưng tác phẩm đầu tay của ông lại là tập văn xuôi “Đám ma
tôi” được NXB Tân Việt in năm 1943 (ông sinh ngày 3-7-1920). Trước đó
Đinh Hùng đã có thơ đăng trên các báo: Hà Nội tân văn của Vũ Ngọc Phan, Giai phẩm
đời nay của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Khi bài thơ Kì nữ ra đời và sau đó
được nhà thơ Thế Lữ giới thiệu trong truyện “Trại Bồ Tùng Linh” đã
đưa tên tuổi Đinh Hùng lên đỉnh cao và khẳng định ông là một thi sĩ tài hoa với
thi ngôn và thi tứ đầy ma lực. Điều này thể hiện rõ nhất trong thi phẩm “Mê
hồn ca” (1954).
“MỘNG DƯỚI
HOA” VÀ SỰ TÀI HOA CỦA ĐINH HÙNG- PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG
TỪ KẾ TƯỜNG
Khi ở tuổi thanh xuân, tôi đoán chắc rằng, những
thanh niên nam nữ trạc tuổi tôi đều ít ra một vài lần đã lẩm nhẩm mấy câu thơ
trong bài thơ Mộng dưới hoa của thi sĩ Đinh Hùng và khi bài thơ này được nhạc
sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc lại càng thuộc lòng, không chỉ lẩm nhẩm như đọc
“rap” mà là hát, hát một cách tình tứ khi yêu nhau, bên cạnh nhau và cả khi đã
xa cách. Không chỉ thế, mãi đến bây giờ hơn nửa đời người tôi vẫn thường lẩm nhẩm
những câu thơ này và cất tiếng hát bất chợt những câu hát này mỗi khi hoài niệm,
ngập tràn cảm xúc về hình bóng của “ai đó” đã đi qua đời mình, đi một cách lặng
lẽ, hay thật sự ồn ào gây ra những vết thương sâu, để nhớ mãi.
Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
Tóc xanh lả bóng dừa hoang dại
Ấu yếm nhìn tôi không nói năng...
Đời sống trải ra dưới chân đi không phải chỉ có con
đường gai góc. Đời sống cùng một lúc cũng mở cho người những cánh cửa mơ mộng
khác hơn. Ở đó giấc mộng đẹp đầu tiên khi người niên thiếu bao giờ cũng là một
đối tượng hiện thân cho tình yêu. Người con gái ấy với đầy đủ quyền năng sẽ đưa
người ta đi trên cây chổi thép, tới những bến bờ hư ảo nhất hiện tại.
Gọi tình tình yêu ấy là tình đầu đời và người yêu sẽ
cùng chung một giấc mộng. Đường bay của cây chổi thép sẽ không có ga nào gọi là
ga cuối cùng. Đời sống trong một giấc mộng là đời sống trôi hoài không nghỉ
ngơi. Có nghĩa, trí tưởng tượng còn là một vùng thênh thang mây trắng và
cái “chưa gặp” ấy được hiểu như một định mệnh còn chờ để ban phân phát cho một
người nào. Cái tuyệt vời nhất nói theo nghĩa của hạnh phúc bao giờ cũng là cái
“chưa” hơn là cái “đã có”. Chưa có nên vẫn nghĩ và những cánh cửa như thế cứ mở
hoài với những đôi mắt trong tim, muôn nơi và muôn thuở.
Hồi còn niên thiếu, một cậu học sinh lớp đệ tam nhiều
mơ mộng và nhiều nghi ngờ, tôi yêu thơ Đinh Hùng như chính những mơ mộng và những
nghi ngờ đó. Tôi đã thuộc vanh vách bài thơ “Mộng dưới hoa”, chép
không biết bao nhiêu lần vào giấy vở để tặng học trò con gái, những tà áo “tiểu
thư” đó làm cuống quýt mắt tôi như những sợi chỉ mộng đã rối ngây thơ trong
lòng. Nhưng tôi quả thật cũng chưa hiểu được cái đẹp tuyệt vời và sâu kín nhất
của bài thơ mà bắt đầu là câu: “Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng”. Sao lại “vẫn”
mà không phải “đã”? Bình thường nếu ở một người khác chứ không phải Đinh Hùng
câu này chắc chắn phải dùng chữ ”đã” thay vì chữ “vẫn”. Chưa gặp em tôi (đã)
nghĩ rằng, có nghĩa là chưa gặp em tôi đã nghĩ rằng có nàng thiếu nữ đẹp như
trăng, như hoa, hay đẹp như bất cứ hình dung từ nào khác.
Điều này còn nằm trong dự đoán, mà dự đoán có thể đúng
mà cũng có thể sai. Bởi vì nàng thiếu nữ khi chưa gặp, tôi đã nghĩ đẹp như
trăng nhưng khi tôi gặp rồi thì nàng thiếu nữ có thể sẽ đẹp một cách khác. Đó
là điều hoàn toàn dành cho sự bất ngờ. Ở đây, Đinh Hùng đã dùng chữ “vẫn”, tức
là tôi đã xác định rõ ràng rồi dù chưa gặp, người thiếu nữ ấy cũng vẫn đẹp như
trăng. Chữ “vẫn” quá tuyệt vời và điều này càng chứng tỏ rằng không phải chỉ là
một thi sĩ làm thơ hay, mà còn là một thi sĩ tài hoa.
Dĩ nhiên không phải căn cứ vào một bài “Mộng dưới
hoa” do Phạm Đình Chương phổ nhạc mà thôi. Thơ của Đinh Hùng nhiều lắm, đó
là “Đường vào tình sử” hành trang của những người niên thiếu đi vào tình
yêu lần đầu. Sống với tình yêu thứ nhất là sống với người trong mộng, cõi mộng
đầy tràn ánh trăng của độ mười sáu, mười bảy. Và Phạm Đình Chương cũng không chỉ
phổ nhạc duy nhất một bài “Mộng dưới hoa”, những “Nửa hồn thương đau”,
“Dạ tâm khúc”, “Buồn đêm mưa”, “Người đi qua đời tôi”. Đó cũng toàn là thơ
phổ nhạc. Nhưng với “Mộng dưới hoa”, Đinh Hùng và Phạm Đình
Chương như hiểu nhau hơn ở một độ nồng của thơ và một độ cao của nhạc. Thơ, nhạc
bay bổng, câu liền câu, ý liền ý đến nỗi nếu không thuộc thơ Đinh Hùng thì nhạc
của Phạm Đình Chương sẽ làm ta thuộc thơ Đinh Hùng, che những nốt nhạc ấy lại,
nó là một bài thơ trọn vẹn của một thi sĩ.
Nhạc phổ thơ như thế mới nói được hết cái tài hoa của
cả thi sĩ lẫn nhạc sĩ.
Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
Tóc xanh lả bóng dừa hoang dại
Âu yếm nhìn tôi không nói năng...
Đó là bốn câu đầu của bài thơ (và nhạc). Đó cũng là
sự nghi ngờ, lạnh bạc của một giấc mộng. Em đã hiện đến, vẫn đẹp như tôi nghĩ.
Tóc xanh là bóng dừa hoang dại, âu yếm nhìn tôi không nói năng. Không sai vào
đâu được nỗi ngỡ ngàng đó của một khoảnh khắc thời gian dừng lại với hai người
gặp nhau trong giấc mộng. Hò hẹn bao giờ qua những cái nhìn âu yếm ấy?
Câu hỏi hoàn toàn không được trả lời vì đó là câu hỏi
của một hạnh phúc tràn đầy như những sợi máu vừa căng lên làm nóng hổi trái tim
ta.
Nếu bước chân ngà có mỏi
Xin em dựa sát lòng anh
Ta đi vào tận rừng xanh
Vớt cánh rong vàng bên suối...
Yêu nhau là nương tựa vào nhau những khi đổ nát, tan
vỡ. Tôi vẫn nghĩ như thế nhưng tình đầu không bao giờ là một hạnh phúc đến với
ta rồi ở mãi. Thế nên tôi vẫn chưa, hay không còn dịp nào để nghe những bước
chân mệt mỏi của em ghé sát vào tôi và chúng ta đưa nhau vào tận rừng xanh vớt
cánh rong vàng bên suối. Khi người yêu đã xa cách nghìn trùng tôi mới bàng
hoàng với bốn câu (thơ hay nhạc) đó?
“Cánh rong vàng” đã tượng trưng cho một hạnh phúc
mong manh. Có cặp tình nhân nào vớt được “cánh rong vàng” bên suối ấy chưa?
Chưa, nó hoàn toàn là một giấc mộng.
Bước khẽ cho lòng nói nhỏ
Bao nhiêu mộng ước phù du
Ta xây thành mộng nghìn thu
Núi biếc sông dài ghi nhớ
Ôi chưa gặp nhau như đã ước thề
Mây hồng giăng tám ngả sơn khê
Bóng hoa ngả xuống bàn tay mộng
Và mộng em cười như giấc mê.
Tôi đã đánh mất tình yêu đầu tiên từ lúc nào. Thế
nên khoảng thời gian yêu nhau hãy còn bàng hoàng lắm, và cơn mộng của Đinh Hùng
- Phạm Đình Chương chụp xuống thành một bản trường ca, hát hoài qua những năm
tháng, ngày tháng lênh đênh. Làm gì còn được một câu “Bước khẽ cho lòng nói nhỏ” để
nói với nhau? Chính điều đó đã làm cho tôi hiểu hơn lúc nào, bao giờ tình yêu
cũng chỉ là một bóng hoa ngã xuống bàn tay mộng, và mộng em cười như giấc mê. Quả
thật, sống bây giờ là sống cho những cơn mộng đã xế mất ngang đầu, hụt hẫng bể
dâu và có lẽ, cũng đã tan tành để mãi mãi đau xót, hối tiếc lại khoảng ngày
nào,“chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng”.
Thi sĩ Đinh Hùng nổi tiếng rất sớm trong làng văn,
làng báo Hà Nội, ông là em rể của thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Thi sĩ Đinh Hùng nổi
tiếng về thơ nhưng tác phẩm đầu tay của ông lại là tập văn xuôi “Đám ma
tôi” được NXB Tân Việt in năm 1943 (ông sinh ngày 3-7-1920). Trước đó
Đinh Hùng đã có thơ đăng trên các báo: Hà Nội tân văn của Vũ Ngọc Phan, Giai phẩm
đời nay của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Khi bài thơ Kì nữ ra đời và sau đó
được nhà thơ Thế Lữ giới thiệu trong truyện “Trại Bồ Tùng Linh” đã
đưa tên tuổi Đinh Hùng lên đỉnh cao và khẳng định ông là một thi sĩ tài hoa với
thi ngôn và thi tứ đầy ma lực. Điều này thể hiện rõ nhất trong thi phẩm “Mê
hồn ca” (1954).
Tháng 8-1954, khi vào Nam, Đinh Hùng cộng tác với nhật
báo Tự do của ông Phạm Việt Tuyền, cùng thời với Tam Lang, Mặc Đỗ, Mặc Thu, Như
Phong... Khi nhật báo Tự do đình bản, Đinh Hùng cộng tác với đài phát thanh Sài
Gòn, phụ trách ban thi ca Tao Đàn, một chương trình ngâm thơ nổi tiếng lúc bấy
giờ và từng tạo nên những giọng đọc thơ nức tiếng như: Hồ Điệp, Quách Đàm, Tô
Kiều Ngân, Hồng Vân, Hoàng Oanh... Trong thời kỳ làm báo ở miền Nam, thi sĩ
Đinh Hùng còn ký nhiều bút danh khác như Thần Đăng khi làm thơ trào phúng, Hoài
Điệp Thứ Lang khi viết tiểu thuyết, đặc biệt là tiểu thuyết dã sử như “Cô
gái gò Ôn khâu”, “Đao phủ thành Đại La”. Năm 1961 Đinh Hùng cho ra đời tập
thơ Đường vào tình sử đoạt giải “Văn chương và thi ca” năm 1962.
Năm 1967 Đinh Hùngcho ra mắt tuần báo Tao Đàn thi
nhân nhưng báo chỉ ra được 2 số thì ông mất vì bệnh ung thư gan lúc đang nằm điều
trị tại Bệnh viện Bình Dân (5h sáng ngày 24-8-1967) khi chỉ mới 48 tuổi.
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương (sinh năm 1929) tại Bạch
Mai, Hà Nội, cũng là một nhạc sĩ tài hoa, nổi tiếng rất sớm, không chỉ là một
nhạc sĩ mà ông còn là ca sĩ với tên Hoài Bắc, chủ trương thành lập ra ban hợp
ca Thăng Long (1951) nổi tiếng ở Hà Nội với các thành viên đều là người trong
gia đình gồm: Hoài Bắc (Phạm Đình Chương), Hoài Trung (Phạm Đình Viêm), Thái Hằng
(Phạm Thị Quang Thái), Thái Thanh (Phạm Thị Băng Thanh).
Trước đó, những năm đầu kháng chiến, Phạm Đình
Chương cùng với các anh em trong gia đình như vừa nêu đã gia nhập Ban Văn nghệ
quân đội ở Liên khu IV và đi ca hát phục vụ chiến trường. Thời kỳ này Phạm Đình
Chương đã sáng tác những bản nhạc có giai điệu hùng tráng, tươi trẻ đầy hào khí
như: Ra đi khi trời vừa sáng, Thanh niên tiến lên, Bài ca tuổi trẻ, Mười
thương, Sáng rừng, Hò leo núi, Hội trùng dương... Năm 1953 nhạc sĩ Phạm
Đình Chương kết hôn với ca sĩ Khánh Ngọc rồi cùng gia đình vào Nam năm 1954.
Sau khi vào Nam, gia đình nhạc sĩ Phạm Đình Chương đều tiếp tục làm nghệ thuật,
Ban hợp ca Thăng Long biểu diễn ở các phòng trà, vũ trường. Nhạc của Phạm
Đình Chương cũng chuyển hướng sang phong cách trữ tình, lãng mạn, sâu lắng và đầy
tâm trạng như: Xuân tha hương, Buồn đêm mưa, Màu kỷ niệm, Xóm đêm, Mưa Sài Gòn
mưa Hà Nội... Và một ca khúc không thể không nhắc đến mỗi dịp xuân về của nhạc
sĩ Phạm Đình Chương là “Ly rượu mừng”.
Khi cuộc hôn nhân với ca sĩ Khánh Ngọc tan vỡ, nhạc
sĩ Phạm Đình Chương đã có những ca khúc đau xót, da diết như: Nửa hồn
thương đau (phổ thơ Thanh Tâm Tuyền), Người đi qua đời tôi (phổ
thơ Trần Dạ Từ)... Riêng với việc phổ thơ, nhạc sĩ Phạm Đình Chương được
đánh giá là một trong số rất ít nhạc sĩ phổ thơ tài hoa đã chuyển hóa thơ thành
đôi cánh bay cao, giúp thơ hay hơn, nhiều màu sắc hơn, nâng hồn vía thơ bay bổng
hơn để được nhiều người nhớ và thuộc hơn qua nhạc. Tài hoa phổ thơ của Phạm
Đình Chương xếp ngang hàng với nhạc sĩ Phạm Duy. Quả vậy, một số bài thơ khác của
các nhà thơ được ông phổ nhạc đã khẳng định điều này như: Lệ đá xanh (phổ
thơ Thanh Tâm Tuyền), Đôi mắt người Sơn Tây (phổ thơ Quang
Dũng), Đêm nhớ trăng Sài Gòn (phổ thơ Du Tử Lê)... Và bài Mộng
dưới hoa(phổ thơ Đinh Hùng) là một ví dụ. Sau năm 1975 nhạc sĩ Phạm Đình Chương
định cư tại Mỹ, ông mất ngày 22-8-1991.