Lấy cảm hứng từ những tình khúc nổi tiếng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, “Em còn nhớ hay em đã quên” sản xuất năm 1992, xoay quanh mối tình dang dở giữa một nhạc sĩ lãng du Quang Sơn với hai cô người yêu trẻ đẹp và dịu hiền là Diễm và Huyền My ở miền Nam trước ngày giải phóng. Chiến tranh đã cướp mất đi mối tình đầu trong sáng, thơ mộng và nhiều hứa hẹn son sắt của nhạc sĩ Quang Sơn. Và, như định mệnh giữa dòng đời phiêu bạt anh lại gặp Huyền My - cô ca sĩ có giọng ca trữ tình đã chia sẻ cùng chàng niềm vui, nỗi buồn và cả ước mơ hạnh phúc. Nhưng chiến tranh, thế thái nhân tình đã buộc Huyền My phải lặng lẽ chia tay với chàng, để ra đi đến tận phương trời xa thẳm với nỗi day dứt khôn nguôi. Giờ đây, trong thế giới âm thanh và nhạc điệu, nhạc sĩ Quang Sơn chỉ còn lại cây đàn ghi ta, cô đơn, nhớ nhung hoài vọng qua những lời tự tình của hai người yêu nhau. Căm phẫn chiến tranh, nhạc sĩ Quang Sơn đã kêu gọi sinh viên Sài Gòn đứng lên đấu tranh đòi hòa bình bằng những bài ca tranh đấu hùng tráng. Chính vì thế, Quang Sơn đã trở thành biểu tượng của những người yêu nước, yêu hòa bình, của những sinh viên tham gia phong trào chống Mỹ...



Tôi làm phim 'Em còn nhớ hay em đã quên

NGUYỄN HỮU PHẦN

Lần đầu gặp Trịnh Công Sơn tôi thấy anh thật mảnh mai, nhỏ nhẹ từ dáng người, cách đi đứng đến trò chuyện và hơn thế anh như lúc nào cũng lơ mơ giống như người đang “bay” (tôi nói Sơn “bay” là vì đến tận lúc này gần 5 năm sau giải phóng, anh vẫn có vẻ như rất lơ mơ với cuộc sống xung quanh. Có lần anh đi hát trong một sinh hoạt thanh niên nào đó, Ban tổ chức đưa phong bì cho anh, anh ngơ ngác một chút rồi mới hiểu đấy là tiền thù lao, anh trả lời rất ngộ: “Sơn có mẹ Sơn nuôi rồi mà”. Thật thú vị khi được nghe Sơn hát, anh không phải là ca sỹ biểu diễn, giọng hát hơi khàn khàn, yếu yếu, nhưng thật sâu, thật truyền cảm. Lời hát của Sơn làm người nghe hiểu rõ hơn ý nghĩa từng ca từ anh viết... Khi ấy tôi chỉ là một phó đạo diễn, chưa có điều kiện để cộng tác với Sơn nên chỉ làm một người bạn trò chuyện cho vui và nghe Sơn hát thôi. Mãi đến khi tốt nghiệp Đạo diễn Điện ảnh (khóa 1 của trường Đại học Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội) năm 1983 tôi mới có hy vọng được làm việc với anh...
Năm 1990, tôi được đọc một bài viết về Huế của Khánh Ly. Khánh Ly kể rằng, cô chưa sống ở Huế nhưng yêu Huế qua Sơn bởi anh là một người Huế gốc, bởi anh mang tâm hồn, bản sắc Huế và anh là một tài năng... Bài viết có tên “Sông vẫn chảy đời sông, Nước vẫn trôi đời nước, chỉ lòng người...” có những chi tiết rất thú vị về Sơn.
Tôi không còn giữ bài ấy, nhưng vẫn nhớ một đoạn như thế này: Có những chiều tôi (Khánh Ly) và Sơn ngồi trong quán cà phê bên bờ hồ Xuân Hương mờ sương. Tôi hỏi anh: “Sống ở trên đời cần điều gì hả anh?”. Sơn quay lại nhìn tôi, anh trả lời: “Cần có một tấm lòng”. Tôi lại hỏi:“Để làm gì?”. Sơn quay ra hồ, anh lấy ngón tay đẩy cái gọng kính lên cao, một động tác thường thấy của anh, anh nói như thể với làn sương mỏng trên mặt nước chứ không phải với tôi: “Để gió cuốn đi”…
Tôi thích cách nói ấy và hơn thế nữa, tôi rất thích bài hát Để gió cuốn đi của Sơn... Và chính từ câu nói ấy, bài viết ấy, tôi đã nẩy ra ý tưởng làm một bộ phim có hình bóng của Sơn, có cái “tứ” cái chủ đề giống những điều Sơn viết trong bài hát ấy: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi!”.
Thế là tôi vào Nam gặp Sơn tại nhà anh. Tôi nói với Sơn rằng tôi có ý định làm một bộ phim về một người nhạc sỹ sống giữa những thăng trầm trên đất nước có chiến tranh. Sơn rất vui, anh kể cho tôi nghe vài mẩu chuyện không phải của anh mà của những người bạn có liên quan đến chủ đề của tôi. Nhưng rồi anh hỏi vậy thì cần gì ở anh ấy? Tôi đưa cho Sơn một công văn của Hãng phim Thanh Niên có danh sách các bài hát của anh mà tôi đã chọn, dự định sử dụng trong phim (và cả số tiền trả bản quyền tác giả) Sơn đồng ý, ký vào tờ công văn.
Anh cũng nói đùa với tôi: Ông không định làm phim chân dung tôi đấy chứ? Tôi trả lời: Nhân vật của tôi là một nghệ sỹ được hư cấu, ông thấy đấy, tôi đâu có ý định tìm hiểu những chi tiết về cuộc đời ông”. Sơn cười: “Như thế sẽ dễ xem hơn và ông cũng dễ viết kịch bản, làm phim hơn”. Chúng tôi uống rượu với nhau rồi chia tay.
Tôi trở về Bắc, viết kịch bản bộ phim “Em còn nhớ hay em đã quên” tương đối dễ dàng vì đã có thời gian suy nghĩ về nó.
Khi chúng tôi chuẩn bị quay bộ phim thì biết tin mẹ Trịnh Công Sơn mất. Tôi biết mẹ có vị trí quan trọng vô cùng trong cuộc sống của Sơn. Vì anh không lấy vợ nên suốt đời Sơn ở nhà với mẹ. Đã trên 50 tuổi nhưng anh vẫn được mẹ chăm sóc như một đứa trẻ. Những lần anh uống rượu say, bà vẫn pha nước gừng cho anh uống, bôi dầu, bôi vôi vào thái dương để giã rượu... Khi mất mẹ, Sơn bị khủng hoảng lớn, các em gái anh đã đón anh sang Canada để anh được nghỉ ngơi yên tĩnh.
Chúng tôi vào Huế và đi suốt dọc miền Trung, Cao nguyên và vào thành phố Hồ Chí Minh để quay bộ phim trong khi Sơn ở nước ngoài. Khi bản nháp của “Em còn nhớ hay em đã quên” được dựng xong, đã có tiếng hát Play back của ca sỹ Thùy Dung nhưng chưa lồng tiếng, tôi nghe tin Trịnh Công Sơn đã về Sài Gòn liền mang phim vào cho anh xem trước.
Dư luận, báo chí cũng đã nói đến bộ phim của chúng tôi nhưng họ thường nói đó là bộ phim truyện về nhạc sỹ Trịnh Công Sơn (mặc dù chưa ai được xem). Tôi đến gặp Sơn, hơi ngạc nhiên vì anh tiếp tôi không được hồ hởi lắm, anh không mang rượu ra mời tôi như trước đây. Tôi nghĩ là anh vẫn còn đang buồn vì bắt đầu sống ở gian nhà cũ mà không có bóng mẹ mình... Nhưng rồi Sơn nói thẳng với tôi sự lo lắng của anh: “Tôi vừa sang Canada, sang Mỹ, thật rầu lòng vì những bài hát của mình bị họ ghép đủ các loại hình ảnh lăng nhăng vào, trong đó rất nhiều hình các cô gái mặc áo tắm đi đi lại lại, uốn éo... để làm băng Karaoke... Bây giờ lại nghe ông làm phim truyện về tôi, tôi sợ quá!”.
Tôi bảo Sơn: “Tôi mang theo băng để ông xem đây”. Thế là Sơn kéo tôi vào nhà bật máy, cho băng vào. Sơn chăm chú theo dõi màn hình... và chỉ được một phần ba phim, anh bảo tôi: “Tắt máy đi đã, để tôi gọi mấy người bạn đến cùng xem!”. Anh nhấc điện thoại gọi Nguyễn Quang Sáng, Trịnh Cung và mấy người nữa... Trong lúc chờ bạn đến, anh lấy rượu ra mời tôi một cách vui vẻ.
Sơn đã thích bộ phim “Em còn nhớ hay em đã quên” của chúng tôi. Hơn thế nữa anh thích giọng hát của Thùy Dung (hồi ấy Thùy Dung còn đang là sinh viên Nhạc viện Hà Nội, cô vừa đoạt giải nhì cuộc thi đơn ca toàn quốc). Sơn bảo: “Con bé này hát hay lắm, anh bảo nó vào đây với tôi, tôi sẽ dạy nó như ngày trước dạy cho Khánh Ly ấy”.
Khi bộ phim hoàn thành, tôi lại vào Nam để ra mắt. Trong buổi họp báo đầu tiên (và nhiều buổi chiếu giới thiệu khác) Sơn có mặt cùng tôi. Hôm ấy, một Việt Kiều tỏ ý thích bộ phim và muốn mua quyền phát hành phim này ở hải ngoại. Đối với người vay vốn làm phim, đang mang nợ, có được cơ hội như thế thật đáng quan tâm. Nhưng “ông chủ” Việt kiều này đề nghị chúng tôi để cho ông ấy được lồng lại tiếng hát của Khánh Ly vào thay cho Thùy Dung. Tôi trả lời ngay là không được, tôi nói lý do là tôi đã nghĩ đến việc này từ khi chưa làm phim và thấy không ổn vì những bài hát này nếu lấy ở băng cũ (khi Khánh Ly còn trẻ) thì tempo quá chậm, không phù hợp với người nghe đương thời, còn nếu dùng giọng Khánh Ly bây giờ thì lại quá già không khớp với nhân vật còn rất trẻ. Ngay sau khi tôi nói, Sơn đứng bật dậy, anh đồng ý với tôi, anh nói thêm rằng đợt vừa rồi ở hải ngoại anh cũng đã đi hát cùng Khánh Ly nhưng không còn xúc động với giọng hát của cô nữa.
Cũng trong buổi họp báo ấy, có một phóng viên hỏi Sơn: “Thưa nhạc sỹ, đây có phải là cuộc đời ông và xuất xứ những bài hát của ông không?”. Sơn trả lời ngay: “Không, đấy là cuộc đời do ông Phần này bịa ra đấy chứ... Nhưng nó rất giống với cuộc đời tôi, ngay cả cái cậu Lê Công Tuấn Anh cũng giống hình dáng tôi ngày trước lắm...”. Tôi cũng đã đưa Lê Công Tuấn Anh đến nhà Sơn chơi. Sơn khen Lê Công diễn tốt... Sơn chỉ gặp Lê Công có hai lần như vậy (một lần tại cuộc họp báo và một lần ở nhà riêng) thế nhưng đến năm 1996 khi Lê Công mất, tôi đọc trên một tờ báo thấy Sơn trả lời câu hỏi về Lê Công như thế này: “Tôi chỉ mới gặp Công một hai lần... Nhưng ngay từ đầu tôi đã thấy cậu ấy là một nghệ sỹ và rất cô đơn”. Sơn đã nhận xét rất đúng về Lê Công và đấy cũng là lời giải thích chính xác nhất về cái chết của người diễn viên tài hoa này.
Ngày Trịnh Công Sơn mất, tôi không có mặt ở trong Nam, một tuần sau tôi mới vào và cùng Trương Ngọc Ánh đến nhà thắp hương cho anh. Các em gái, em rể của Sơn mới ở nước ngoài về không ai biết tôi cả. Tôi và Ánh phải tự giới thiệu và sau đó tôi để lại cho mọi người trong gia đình băng phim Em còn nhớ hay em đã quên như một kỷ vật của anh và chúng tôi.

Nguồn: Thế Giới Điện Ảnh