Trúc Cương là người ham rượu, lúc nào cũng ngất ngưởng.
Ngoài giờ làm việc muốn tìm anh chỉ ra mấy quán rượu quen. Nhiều người bảo anh
nát rượu. Khổ nỗi, Trúc Cương nghèo, lương cán sự bậc thấp cũng chẳng bao
nhiêu. Mỗi lần lĩnh lương xong phải đem hết về đưa người vợ đang học tiếp Đại học
Sân khấu Điện ảnh và nuôi hai con nhỏ. Chỉ dám găm lại chút nhuận bút. Nhưng
ngày ấy đâu có nhiều báo đăng thơ như bây giờ, chỉ vài tháng may lắm mới có một
bài thơ được đăng. Việc anh uống rượu anh không dấu ai mà cũng chẳng dấu được
ai. Không biết có phải anh mượn rượu để lấy cảm hứng sáng tác? Nhưng với tôi
chưa bao giờ thấy anh rượu vào rồi sau đó ngồi ngay vào bàn viết...
TRÚC
CƯƠNG GIỮA RƯỢU VÀ THƠ
HUY THẮNG
Tôi biết nhà thơ Trúc Cương muộn. Mãi đến cuối năm
1976 chúng tôi mới giáp mặt nhau lần đầu, đó là khi nhà xuất bản Văn hóa dân tộc
thuộc Bộ Văn hóa được thành lập. Khi ấy tôi đang công tác tại văn phòng Bộ Văn
hóa, giúp lãnh đạo Bộ theo dõi mảng văn hóa miền núi và các dân tộc thiểu số
thì nhà thơ Nông Quốc Chấn, thứ trưởng Bộ Văn hóa kiêm nhiệm giám đốc nhà xuất
bản văn hóa dân tộc giao nhiệm vụ mới cho tôi với cương vị trưởng phòng quản lý
xuất bản. Tiền thân của nhà xuất bản văn hóa dân tộc là nhà xuất bản Việt Bắc,
thuộc khu tự trị Việt Bắc, trước đóng trên Thái Nguyên. Năm 1975 khi các khu tự
trị giải thể thì hầu hết các tổ chức kinh tế, chính trị cũng như văn hoá các
khu tự trị phải giải thể. Tuy nhiên theo đề xuất của Bộ Văn hóa và được chính
phủ đồng ý thì riêng các đoàn nghệ thuật, các trường văn hóa- nghệ thuật, nhà bảo
tàng và nhà xuất bản Việt Bắc được phép giữ lại và do Bộ Văn hóa trực tiếp quản
lý. Nhà xuất bản Việt Bắc được đổi tên là nhà xuất bản Văn hóa dân tộc. Vì
không còn bó hẹp trong phạm vi 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên
Quang, Hà Giang và Thái Nguyên như cũ, mà chức năng, nhiệm vụ và đối tượng được
mở rộng ra phạm vi các khu vực miền núi và đồng bào các dân tộc cả nước nên
biên chế nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, ngoài số cán bộ cũ từ nhà xuất bản Việt
Bấc theo về đã kịp thời được bổ sung thêm một số cán bộ người dân tộc bên Tây Bắc
và dọc Trường Sơn. Riêng khu vực Tây Nguyên chưa có ai mà công việc lại cần nên
một lần nhà thơ Nông Quốc Chấn bảo tôi: “Nhà xuất bản không thể thiếu người
dân tộc lo mảng văn hóa – văn học Tây Nguyên. Mình để ý nhưng chưa thấy có ai
nên nghĩ ,trước mắt có Trúc Cương. Trúc Cương là người Kinh nhưng đã nhiều năm
làm việc trong đoàn văn công Tây Nguyên nên khá am hiểu văn hóa khu vực này,
hơn nữa lại là nhà thơ, viết nhiều về Tây Nguyên nên mình có dặn Trúc Cương đến
gặp anh Thắng để lo thủ tục”
Ngay ngày hôm sau Trúc Cương đến gặp tôi, tự giới
thiệu. Đó là một người đàn ông nhỏ thó, gầy đen, khoảng bốn mươi tuổi, áo quần
nhầu nhĩ, luộm thuộm và thực tình, có vẻ không chú trọng nhiều đến hình thức
cho lắm. Tôi mang máng, hồi đó hình như anh còn có một chiếc răng bọc vàng nên
có cảm giác như đó là một người dân tộc thiểu số vùng cao. Bù lại, trên khuôn mặt
nhàu nát của anh lại toát lên vẻ hiền lành, cởi mở và nhất là sự chân thành nên
rất dễ gây cảm tình cho người tiếp xúc. Anh đưa tập hồ sơ lý lịch cá nhân của
anh cho tôi, nhân đó anh tặng tôi một tấm bưu ảnh phong cảnh núi rừng của nước
ngoài. Sau bưu ảnh là lời đề tặng của anh với chữ kí rất bay bướm mà tôi nhớ,
chữ G cuối cùng không đi xuống mà uốn lượn bay vút lên cao. Hẳn anh muốn rồi mọi
sự trong đời sẽ luôn suôn sẻ và thuận lợi?
Sau đó chúng tôi luôn có dịp gặp gỡ trò chuyện, tâm
sự. Bộ Văn hóa có phân cho nhà xuất bản 5 gian nhà tường trát, mái lợp
phi-brô-xi măng ngay trong khu văn công Cầu Giấy, tạm có chỗ làm nơi làm việc,
giao dịch. Nhà riêng của Trúc Cương, do trước đây anh cũng là cán bộ đoàn văn
công Tây Nguyên, nên cũng được phân một gian trong khu đó. Tôi nhà riêng ở xa
nên buổi trưa hay ghé qua nhà anh rồi thân thiết cả với gia đình anh.
Từ ngày có Trúc Cương về làm việc mối quan hệ giữa
nhà xuất bản với các nhà văn, nhà nghiên cứu về mảng văn hóa – văn học Tây
Nguyên dần được thiết lập nên chỉ sau có mấy tháng nhà xuất bản đã kịp ra mắt 2
cuốn sách về Tây nguyên. Đó là cuốn Trường ca Đam San do Đào Tử Chí
sưu tầm, biên soạn, và tập bút kí Tây nguyên mùa càycủa Bùi Bình Thi rất
được hoan nghênh.
Chị Son, vợ Trúc Cương, là một phụ nữ tháo vát nhưng
tính tình tuệch toạc ít để bụng chuyện gì, nói ầm ầm như cãi nhau xong lại như
quên ngay. Nhiều khi có khách đến nhà thì chị họa sĩ thiết kế mỹ thuật sân khấu
nhiều khi vẫn cứ ào ào kể tội chồng, nào là chỉ rượu chè không biết lo gia
đình. Biết tính vợ, nên mặc Son nói gì cứ nói, ngồi ngay đấy nhưng Trúc Cương
ít bận tâm hoặc cùng lắm chỉ ừ hữ trong miệng.
Nói tới Trúc Cương khiến tôi lại nhớ đến một bài thơ
của Trịnh Thanh Sơn. Đây là một bài thơ ngắn có mấy câu chủ yếu viết tặng Trần
Vũ Mai, nhưng qua đó phần nào nói về những nhà thơ rượu một bên và thơ một bên,
nay đã người còn, người mất: Một nửa đời Mai thơ đã nuốt/ Nửa đời sau rượu
uống nốt Mai rồi/ Rót một chén này, đưa Định Nguyễn/ Hà Nội còn Tạ Vũ, Trúc
Cương, Tôi... (nhưng theo Đàm Khánh Phương, riêng ở câu cuối, ban đầu
Trịnh Thanh Sơn viết: Hà Nội còn Tạ Vũ, Trúc Cương thôi nhưng nghĩ thế
nào sau đó Sơn thay chữ Thôi bằng chữ Tôi )
Trúc Cương là người ham rượu, lúc nào cũng ngất ngưởng.
Ngoài giờ làm việc muốn tìm anh chỉ ra mấy quán rượu quen. Nhiều người bảo anh
nát rượu. Khổ nỗi, Trúc Cương nghèo, lương cán sự bậc thấp cũng chẳng bao
nhiêu. Mỗi lần lĩnh lương xong phải đem hết về đưa vợ. Son đang học tiếp Đại học
Sân khấu Điện ảnh và nuôi hai con nhỏ đang đi học. Chỉ dám găm lại chút nhuận
bút. Nhưng ngày ấy đâu có nhiều báo đăng thơ như bây giờ, chỉ vài tháng may lắm
mới có một bài thơ được đăng. Việc anh uống rượu anh không dấu ai mà cũng chẳng
dấu được ai. Không biết có phải anh mượn rượu để lấy cảm hứng sáng tác? Nhưng với
tôi chưa bao giờ thấy anh rượu vào rồi sau đó ngồi ngay vào bàn viết. Hay anh
có điều phiền muộn trong lòng phải lấy rượu giải khuây? Cũng chẳng phải. Vợ đảm,
con ngoan, lương tháng ổn định, anh em hòa thuận, chẳng gây thù chuốc oán với
ai. Anh thích vậy thôi và mỗi khi uống rượu thì anh thường có bên cạnh một vài
người bạn mà ít khi ngồi một mình.
Một lần tôi có bài đăng trên Văn Nghệ quân đội,
Trúc Cương biết hỏi tôi - “Cậu lấy nhuận bút chưa?”. Rồi Trúc Cương lấy xe đạp
bảo tôi – “Để mình lĩnh hộ” Rồi anh sốt sắng đèo tôi đi. Tưởng đến tòa soạn báo
ở phố Lý Nam Đế, nhưng mới đến Ngõ Trạm thì anh đưa vào một quán rượu bảo là chỗ
anh hay uống, dặn tôi ngồi chờ. Trong túi tôi không có tiền nên rất lo, ngộ lỡ
anh quay lại mà không lĩnh được thì gay, mà Trúc Cương thì bao giờ trong túi
cũng rỗng. Nhưng may, hơn nửa tiếng sau thì Trúc Cương quay lại. Cùng đến tôi
còn thấy có cả Ngô Thảo và Ngô Vĩnh Bình, hai nhà văn quân đội. Trúc Cương gặp
hai anh ở tòa soạn nên rủ cùng đi luôn. Trúc Cương dúi nắm tiền vào túi tôi rồi
hồ hởi kêu bà chủ đem rượu. Bốn anh em bù khú suốt mấy tiếng đồng hồ mà khi
thanh toán chỉ mấy đồng. Thì ra cũng chỉ có chai rượu, đĩa lạc và mấy bìa đậu
phụ. Ngày ấy cuộc sống đạm bạc nhưng sao ấm cúng mà vui.
Cũng quanh chuyện rượu với Trúc Cương mà có lần tôi
bị vợ Trúc Cương trách oan. Một buổi chiều Trúc Cương đi đâu về ghé qua tôi rủ
đi làm chén rượu. Ngồi chừng nửa tiếng Cương đứng lên bảo hôm nay nhà có việc rồi
dắt xe đi. Mấy hôm sau vừa gặp tôi vợ Trúc Cương đã trách ngay: - “Hôm nọ anh
cho nhà em uống nhiều rượu lắm phải không?”. Tôi nói có nhưng chỉ một chén. –
“Thế mà ông ấy lơ mơ đến suốt cả ngày hôm sau. Hôm ấy em đã dặn đi đâu cũng nhớ
phải về sớm, vậy mà ông ấy làm cả nhà phải đợi mãi. Đến khuya cũng không thấy về
nên ba mẹ con không chờ được phải đi ngủ trước. Ông ấy về lúc nào cũng chẳng ai
hay. Nửa đêm thấy tiếng ngáy tưởng có trộm cả nhà giật mình tỉnh dậy. Thì ra
ông ấy về lúc nào, say quá cứ thế lăn ra sàn nhà ngủ, không còn đủ sức để leo
lên giường…”. Sau này Trúc Cương nói lại, khi từ chỗ tôi về, anh lại có bạn, lại
rủ nhau vào quán. Không biết đã là mấy giờ nhưng lúc đứng lên thì Cương đứng
không vững. Bạn phải dìu về. Nhưng anh này cũng sợ vợ Trúc Cương nên chỉ dám
đưa bạn về đến cửa nhà rồi chuồn thẳng.
Năm 1977 Bùi Bình Thi có tập bút kí Tây Nguyên
mùa cày in ở Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc. Sách do Trúc Cương biên tập.
Sách chỉ mới giao cho bên Tổng công ty phát hành sách được ít hôm tôi đã thấy
Trúc Cương săn đón: “Có nhuận bút cho Bùi Bình Thi chưa cậu?”. Rồi anh dặn: “Nhớ
giải quyết sớm hộ mình nhé”.
Tôi nghĩ, chắc Bùi Bình Thi đang rất cần tiền để chi
vào khoản gì đó nên phải nhờ Trúc Cương. Tôi làm việc với tài vụ linh động giải
quyết sớm cho tác giả. Mấy ngày sau Trúc Cương tìm tôi nói nhỏ: - “Bùi Bình Thi
nhờ tôi mời ông đến uống mừng Tây nguyên mùa cày”. Lúc tôi đến nhà Thi ở
phố Ngõ Trạm thì đã thấy có Hồng Phi và Vũ Hạnh, phóng viên báo Nhân Dân ở
đấy.
Chị Mỹ, vợ Bùi Bình Thi, là họa sĩ nhưng rất khéo
tay, làm nhiều món ăn rất hấp dẫn. Đến khi vào cuộc thì Bùi Bình Thi mới cười
nói: “Bữa nay là do công của Trúc Cương”. Bấy giờ tôi mới vỡ lẽ, hóa ra trông
ngù ngờ vậy nhưng Trúc Cương cũng là tay láu cá.
Trúc Cương là người rất tốt nhịn. Không chỉ nhường
nhịn vợ con mà còn cả với bạn bè. Nhiều trường hợp nếu vào người khác sẽ to tiếng,
va chạm. Nhưng Trúc Cương thì không. Một ví dụ, Trúc Cương và Quang Huy cùng tuổi
Bính Tý, 1936, lại cùng làm thơ, cùng vào Hội Nhà văn một đợt nên khá thân thiết.
Hồi Quang Huy mới từ Hội Văn nghệ Nghệ An ra nhận nhiệm vụ ở Nhà văn hóa Trung
ương thì Trúc Cương đang công tác ở Nhà xuất bản Văn Hóa. Mỗi khi đi làm
về Cương thường qua chỗ Quang Huy ngồi chơi. Vì chỗ bạn bè thân thiết hai người
khi xưng hô vẫn thường tao tao, mày mày. Sau này Quang Huy thay Lữ Huy Nguyên
lên làm giám đốc Nhà xuất bản Văn hóa thì Trúc Cương thành cán bộ dưới quyền.
Nghĩ chỗ thân thiết nên khi gặp nhau, Trúc Cương ngay chỗ đông người, thậm chí
có cả khách lạ, vẫn cứ tao tao, mày mày một cách hồn nhiên. Một lần sau khi làm
việc xong với Trúc Cương, Quang Huy phải nói rất thẳng nói với bạn: “Ông với
tôi là chỗ bạn bè thân, ai cũng rõ. Riêng có hai thằng thôi thì thế nào cũng
xong nhưng trước mọi người trong cơ quan hay trước mặt khách thì cũng cần nói
năng, xưng hô cho tế nhị…”. Hơi bất ngờ, Trúc Cương ngẩn mặt. Rồi không trình
bày, không thanh minh cũng không tức giận, chỉ lặng lẽ đứng lên rời phòng làm
việc của Quang Huy. Nhưng từ đấy thấy anh nói năng dè dặt, thận trọng hơn.
Cũng vì thấy Trúc Cương như quá ham rượu, bạn bè lo
anh sao nhãng việc thơ ca. Nhưng không phải. Anh làm nhiều thơ nhưng rất thận
trọng khi công bố. Một lần Trúc Cương và Trịnh Thanh Sơn gặp nhau ở phố Huế. Vì
gần nơi tôi ở nên tiện đường rủ nhau đến tôi. Ba thằng ngồi chuyện trò râm ran,
chợt Sơn hỏi: hồi này Cương có làm thêm bài thơ nào mới?... Tưởng Cương lắc đầu,
nhưng không, anh im lặng lúc lâu sau hắng giọng đọc một mạch như bài thơ đã ngấm
sâu trong anh: “Em ở rất gần, vầng trăng lặng lẽ/ Con gió đi qua, vạt trời hoa
lúa/ Hạt mưa đi qua, bóng ngọn cây gầy/ Trọn vẹn ngày dài, mắt mở thơ ngây/ Qua
mấy chục năm, cuộc đời sông rộng/ chảy hết trung du, chảy suốt đồng bằng/ Anh bất
chợt thấy mình đứng đợi/ Cánh buồm thơ đầy gió, tháng giêng xuân…”.
Trịnh Thanh Sơn sau phút giây trầm lặng, gật gù nói
với Cương: - Thơ của ông còn xúc cảm lắm, vậy ra rượu đã chưa uống
hết thơ ông.
Bài thơ được Cương vừa đọc là bài Vầng trăng lặng
lẽ mà sau này được anh chọn in trong trong tập lấy bài này làm tựa, in tại
Nhà xuất bản Văn học.
So với những nhà thơ cùng trang lứa, Trúc Cương công
bố ít hơn. Sách của anh in ra cũng không nhiều. Ra cuốn nào anh đều đem tặng
tôi. Ngoài Vầng trăng lặng lẽ, Trúc Cương có thêm Thị trấn biên
giới cũng in ở Nhà xuất bản Văn học vào năm 1979, và Cách địa cầu 2
mét ở Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin. Phải nói thêm, không như bây giờ
tác giả chủ yếu bỏ tiền để in nên có người có cả hàng chục tập thơ, ngày ấy được
in dù chỉ một cuốn thôi cũng đã là đặc biệt lắm. Thậm chí hai, ba tác giả phải
đứng chung một tập. Vậy mà Trúc Cương có tới ba tập thơ được in. Hẳn phải chất
lượng thế nào thì nhà xuất bản mới dám in ra.
Không hiểu sao trong các bạn bè đã khuất tôi lại thường
nhớ tới Trúc Cương. Trong tôi luôn hiện về một nhà thơ đôn hậu, tình cảm và đầy
nhẫn chịu. Trong cuộc đời hình như anh ít có những giây phút thật sung sướng,
bay bổng như chữ ký uốn lượn phía sau tấm bưu ảnh mà anh tặng tôi hồi nào. Cảm
giác như lúc nào anh cũng lầm lũi tồi tội. Quần áo chẳng mấy khi thấy phẳng
phiu, sạch sẽ. Tôi không rõ trong cưới của anh và Son anh ăn vận ra sao, có cà
vạt, com-lê không, nhưng hôm anh tổ chức gặp mặt một số bạn bè ngày cưới Tuyết,
một họa sĩ, người vợ thứ hai của anh, thì tôi cũng chỉ thấy anh có chiếc sơ mi
trắng nhưng cũng đã không còn mới. Và suốt mấy chục năm quen biết, gần gũi tôi
như chưa một lần thấy anh chững chạc trong một bộ đồ nghi thức. Tính anh ít chú
ý đến ăn mặc nhưng một phần anh cũng không có điều kiện. Có ít tiền nào anh phải
đưa vợ nuôi con và một phần dành cho rượu. Xưa anh mong có ít tiền để nhấm nháp
chén rượu cùng bạn bè mà ít có. Cuối đời cậu con trai làm ăn khá giả, dành cho
bố một căn nhà rộng rãi, tiện nghi, có người giúp việc thì lúc ấy Trúc Cương đã
yếu quá rồi. Khi những chai rượu ngoại đắt tiền với Cương không thiếu thì
anh không còn đủ sức. Thèm lắm anh chỉ ra quán làm cốc bia hơi, nhưng nhiều khi
anh đã đứng lên về thì vẫn thấy bia còn đầy nguyên trong cốc.
Trúc Cương mất cũng lặng lẽ. Và có lẽ đến tận ngày
anh ra đi mãi mãi, hẳn anh mới có được một lần ăn vân vận thực sự chỉnh tề?