Phùng Gia Lộc người nhỏ thó, ốm yếu, gầy gò; nước da
xanh xám, thở lúc nào cũng nặng nhọc, khò khè suốt ngày vì bị hen suyễn nặng… Thế
nhưng, bên trong con người có bề ngoài mảnh khảnh ốm o ấy lại luôn là một tấm
lòng nồng hậu, một tinh thần sục sôi chống lại cái ác, không chịu được sự bất
công, ngang ngược của bọn quan lại, cường hào mới… Giai đoạn quyết liệt nhất,
sau khi đăng “Cái đêm hôm ấy đêm gì”, Phùng Gia Lộc phải trốn ra Hà Nội… Tôi vẫn
nhớ như in cái cảnh về quê của Phùng Gia Lộc sau những ngày trốn tránh. Vợ anh
chạy từ đâu về không biết, mặt mày hốt hoảng, tất tả, tiêu điều không khác gì
chị Dậu trong Tắt đèn ngày trước. Mấy đứa con ngơ ngác, lạ lẫm trước đoàn khách
xe pháo, hàng hóa lềnh kềnh đầy một khoảng sân đất trước nhà. Nhà anh xiêu vẹo
hơn nhà chị Dậu…
Thế là đúng 30 năm tính từ khi bài kí “Cái đêm hôm ấy
đêm gì” (1988) của Phùng Gia Lộc xuất hiện trên tờ Văn nghệ. Ngày ấy nhà văn
Nguyên Ngọc làm Tổng biên tập. Ngày ấy báo Văn nghệ bán chạy như tôm tươi. Ngày
ấy bạn đọc hồi hộp chờ từng giờ, từng ngày đón đợi báo ra để…. đọc. Ngày ấy đã
xa rồi, bao giờ báo Văn nghệ lại được như… ngày ấy.
Ngày ấy tôi dạy lớp chuyên văn trường Lam Sơn. Tôi
quen Phùng Gia Lộc bắt đầu từ cuộc đấu tranh chống tiêu cực ở Thanh Hóa, sau đó
mới là văn chương. Văn chương của anh cũng bắt đầu từ chống tiêu cực ở huyện Thọ
Xuân, nơi có di tích Lam Kinh nổi tiếng.
Phùng Gia Lộc người nhỏ thó, ốm yếu, gầy gò; nước da
xanh xám, thở lúc nào cũng nặng nhọc, khò khè suốt ngày vì bị hen suyễn nặng…Phùng
Gia Lộc nhẹ đến nỗi, có lần ngồi sau xe tôi, anh nhảy xuống gặp người quen mà
tôi không hề hay biết, cứ thế đi, mãi sau hỏi chuyện vẫn không thấy anh trả lời,
quay lại mới biết là đã đánh rớt anh từ lúc nào không hay. Cũng vì ốm yếu, bệnh
tật thế nên anh rất sợ nước. Hầu như anh ít khi tắm, nhất là về mùa đông. Cũng
vì thế mà, thú thực người anh rất bẩn, bẩn theo nghĩa đen. Anh ngủ lại nhà tôi
mấy lần. Cứ mỗi lần anh về, vợ tôi lại phải giặt giũ, chăn chiếu rất nặng mùi…
Thế nhưng, bên trong con người có bề ngoài mảnh khảnh
ốm o ấy lại luôn là một tấm lòng nồng hậu, một tinh thần sục sôi chống lại cái
ác, không chịu được sự bất công, ngang ngược của bọn quan lại, cường hào mới thời
ấy ở xứ Thanh. Giai đoạn quyết liệt nhất, sau khi đăng “Cái đêm hôm ấy đêm gì”,
Phùng Gia Lộc phải trốn ra Hà Nội, nương nhờ bạn bè ngoài thủ đô, nhất là gia
đình anh Bế Kiến Quốc và chị Đỗ Bạch Mai như nhiều người đã biết. Gần tết năm
1988, anh trở về. Tôi và vài người bạn nữa đưa anh từ thành phố Thanh Hóa lên
Thọ Xuân quê anh.
Tôi vẫn nhớ như in cái cảnh về quê của Phùng Gia Lộc
sau những ngày trốn tránh. Vợ anh chạy từ đâu về không biết, mặt mày hốt hoảng,
tất tả, tiêu điều không khác gì chị Dậu trong Tắt đèn ngày trước. Mấy đứa con
ngơ ngác, lạ lẫm trước đoàn khách xe pháo, hàng hóa lềnh kềnh đầy một khoảng
sân đất trước nhà. Nhà anh xiêu vẹo hơn nhà chị Dậu, bốn phía được níu chằng bằng
4 giây thép vào 4 chiếc cọc để khỏi đổ. Ba gian nhà tranh, ngăn bằng vách nứa,
gian giữa là chiếc bàn khách, mặt bàn là 1 tấm phên, đặt trên 4 chiếc cọc tre cắm
xuống nền nhà. Gian kề đó là 1 chiếc giường gỗ xoan, thấy vẫn còn buông chiếc
màn màu cháo lòng… không thể gọi là màn. Tôi vào gian bên trong, thấy 1 chiếc
giây kéo chéo góc, trên vắt toàn áo quần cũ, dưới đất là chiếc ổ lá chuối lẫn
rơm thay giường ngủ…Thế là hết, không thấy thêm gì khác. Bước ra sân mới thấy một
chiếc rổ đựng mấy củ khoai lang, đặt cạnh một chiếc chum sứt miệng đựng nước uống
được gánh từ sông về, đục màu nước luộc hến. Chủ nhà loay hoay pha trà đãi
khách, nhưng không có phích nước sôi nên đành xuống bếp đun. Đun bằng rơm nên
mùi nước ám khói, khó uống, cứ mỗi lần đổ thêm lại chạy xuống đun lại…Cạnh bếp
lửa thấy có thêm một chiếc ổ lót bằng lá chuối và rơm rạ để ngủ…
Tôi, lúc đó và ngay cả bây giờ, khi viết những dòng
này, vẫn bâng khâng khôn tả, không hiểu được tại sao một người như Phùng Gia Lộc
lại chịu cảnh khốn cùng đến thế, ngoài sức tưởng tượng của tôi. Bỗng nhớ mấy
câu thơ Bế Kiến Quốc tặng Phùng Gia Lộc: “Cái đời cán bộ ở Hà Nội/ Thấy mình
thiếu thốn đủ trăm đường/ Nhìn xuống chao ôi, thăm thẳm mãi/ Tận cùng là bạn ở
quê hương”.
Phùng Gia Lộc sau đó rất nổi tiếng vì có bài “Cái đêm hôm ấy…”. Nhưng cần phải
nói: bài kí ấy sẽ không bao giờ xuất hiện được, nếu không có nhà văn Nguyên Ngọc.
Hôm nay 5-9-2018, tôi viết đôi dòng nhắc lại kỉ niệm
về Phùng Gia Lộc 30 năm trước, cũng xin xem là lời chúc tốt đẹp, lời cảm ơn
chân thành gửi đến nhà văn Nguyên Ngọc, nhân 86 năm ngày sinh của tác giả “Đất
nước đứng lên”!
ĐỖ GIA THỐNG
Mời
đọc lại tác phẩm chấn động 30 trước
CÁI
ĐÊM HÔM ẤY ĐÊM GÌ…
Cuối năm 1983, tôi được ở nhà chờ quyết định về nghỉ
chế độ. Chiều chủ nhật, thằng Học con tôi rủ rỉ nói:
- Con bắt được bác Quang ăn bánh cuốn ở hàng anh
Minh. Bác đi thồ sắn ở chợ Phúc Địa về. Bác cho mấy bó nhưng con không lấy. Bác
dặn con về đừng nói với bố mẹ là đã gặp bác. Nói, hôm nào sang bác đánh chết.
- Hừ! Lại thế nữa...
Tôi buột miệng bảo với con thế, rồi thừ ra. Bạn bè
anh em cùng một phòng với nhau mà đi qua không vào. Có điều gì nhỉ?
Sáng thứ hai tôi sang cơ quan ứng mấy cân gạo và định
bụng sẽ gặp, trút sấm sét lên đầu anh ấy. Nghe tôi trách, Lê Trung Quang, trưởng
phòng tổ chức Ủy ban huyện Thọ Xuân, cười hà hà làm lành thật đôn hậu, dễ yêu:
- Giá có một mình thì tôi vào. Đằng này những bốn
binh, khao được, anh cũng liệt. Vả lại, bốn cái xe nặng è, sợ tối.
Là trưởng phòng tổ chức ủy ban huyện, anh cũng để
gia đình vợ con đói thiếu. Ra anh còn kém cỏi hơn cả tôi, một kẻ chân chim trần
trụi, một tay sắp trở thành "phó thường dân". "Nhà mình cũng bí.
Nộp sản đi rồi, lúa đã cạn. Khó mà ăn thấu tết được". Quang lắc đầu bảo thế.
Anh gạn tôi:
- Ông ở đây với tôi đêm nay cho vui. Tôi buồn quá.
Tôi chỉ vào mấy cân gạo đã bó buộc sau xe, bảo anh
Quang:
- Phải mang "hàng chiến lược" này về chứ.
Nếu nghe lời Lê Quang Trung nằm lại với anh một đêm,
thì tôi đã không thể nào hình dung nổi ở Phú Yên xã tôi Cái đêm hôm ấy là đêm
gì...
Có cái "các" quá giang của Lê Trung Quang
cho mượn, tôi không phải mất ba đồng tiền đò. Qua sông Chu gió vù vù bên tai,
tôi phải kéo vành mũ len, trùm thấp cho đỡ run. Tôi về đến nhà, trời đã sẩm tối,
con mực xông ra í a í ẳng vờn chân lên hông. Vợ tôi bế thằng Văn ngủ khì trong
lòng, ngồi bên bếp than vỏ cao su um khói. Bên cạnh, thằng cu Thức bốn tuổi
đang liến láu. Còn Học - thằng con nhớn đang học bài ở nhà trên.
Thấy tôi về thằng Thức reo lên:
- A bố! Bố về là bố về! Có chi không bố?
- Có cái rét cóng đây này!
Tôi nói rồi dắt xe vào nhà, mở túi gạo, vác xuống bếp
khoe:
- Ứng được năm cân gạo.
Bà cụ thân sinh ra tôi mệt đã lâu, thấy tôi về, cũng
gượng chống gậy xuống bếp sưởi. Cụ bảo:
- Mẹ Học đi nấu cơm cho bố va ăn!
Tôi hỏi:
- Nhà ăn rồi hả mẹ?
Cái thằng Thức đến là hở miệng, cấm có giấu nó được
tí gì. Nó nói:
- Chỉ nấu cơm cho bà với em thôi! Mẹ với anh Học, với
con ăn cháo rau má rồi. Bữa nay mẹ luộc rõ nhiều rau cải.
Tôi thấy cay sè trong mắt.
- Thế thì nấu thêm vào. Hết thì tao đi bới đất, nhặt
cỏ, van ông vái bà. Làm con người mà miếng cơm chín vào bụng vẫn không đủ thì sống
thế nào?
Vợ tôi định cãi câu gì đó, nhưng lại thôi, vội trao
thằng Văn cho bà rồi lại mở túi gạo đi vo. Bà cụ nói:
- Rau cải ế nhăn! Đói, chả mấy người mua. Hôm nay mẹ
va không đong được gạo. May lấy được đấy, không thì mai gác con lên...
Ngoài cửa gió ào ào, tiếng chó sủa ổng oảng ở đầu
ngõ. Có tiếng ai hỏi mua rau cải nhà tôi. Cô Hoa vợ chú Được. Hoa cũng người họ
Phùng, gọi tôi bằng bác. Chồng cô ấy là đội trưởng đội sản xuất cũ, nay vừa được
rút lên làm trưởng ban định mức, rồi phó chủ nhiệm. Cô vào bếp vừa nói, vừa
run:
- Sao năm nay rét sớm thế này? Bác bán cho cháu mấy
bó rau cải xào.
Vợ tôi bắc nồi cơm lên bếp, mấy bà cháu phải dồn chỗ
cho hai người đàn bà tê cóng này ngồi cạnh bếp hơ tay, ngó chẳng khác những
viên đạn bị nén trong cái băng lò xo tròn. Tuy gần bằng tuổi vợ tôi, nhưng là
hàng cháu họ, nên Hoa vẫn bác bác, cháu cháu ngon ơ.
- Bác có ngan, gà gì để cho cháu vài cân. Giá mấy
cũng được, cháu không quản.
- Còn có vài ba con, phải để hôm sau bà...
Tôi lừ mắt chặn lại câu nói hớ, khiến vợ tôi im bặt.
Chả là vì mẹ đẻ ra tôi yếu lắm rồi. Cụ đã bảy mươi lăm tuổi, lại phù nề mặt mũi
vàng ủng như quả thị rụng. Ai cũng bảo khó qua cái đầu mùa Đông này. Vì vậy gia
đình tôi đã lo chuẩn bị ngầm, phòng sau khi cụ về cõi. Cái gì vợ tôi cũng bảo
dành để hôm sau bà... thành quen miệng. Cau cũng phơi kỹ bỏ be để hôm sau, thậm
chí bọt bẹt được đồng rau nào cũng dồn mua ván đóng sẵn áo quan để hôm sau... Ấy
nhưng nói đến cái chết, cụ lại giận và làm nau: Bay trông tao chết à? Tao phải
sống để nhìn con cháu được đến lúc sung sướng chứ. Khổ mãi rồi.
Tôi hỏi Hoa để lấp láp câu hớ rồi cho bà cụ khỏi giận:
- Mua đồ nhậu làm gì tối thế này?
- À... mua cho mấy thằng về đội ta thu sản, khuya
các hắn đớp. Đội và quản trị thuê khoán cháu nấu.
Vì có chồng ở ban quản trị, cô ấy cũng là loại biết
nhiều chuyện "bí mật nội bộ". Hoa thì thò cho vợ tôi biết đêm nay là
đêm "đồng khởi" thu sản, tổng vét cả xã. Họ sẽ đổi chéo, công an và
dân quân đội này về đội kia, vét bằng hết. Vì đội 12 này là nặng gánh nhất, nên
họ sẽ điều về đây những tay cứng cựa. Hoa khuyên:
- Bác có thiếu sản, thì liệu mà xoay đi
- Thế thì tao đét bán rau cho mi nữa.
Vợ tôi toan từ chối, nhưng Hoa nài mãi và có tôi nói
vào nên chị chàng mới chịu nghe. Hoa cầm đèn ra vườn soi cho vợ tôi hái. Cô ấy
cầm rau, rồi còn đi các nhà bên cạnh hỏi mua gà. Cơm cạn, tôi vần cạnh bếp. Vì
không phải ghế độn khoai độn sắn gì nên chín rất mau. Thấy chỉ nấu mình cơm
tôi, lòng tôi lại buồn nổi gai. Vợ tôi bế thằng út vào lót cho nó ngủ trong buồng,
rồi lấy cho tôi cái bát, đôi đũa. Cuộc chào mời đùn đẩy, nhường nhịn nhau rõ bực.
Tôi lùa hai bát cơm với nước dưa chua, rồi bỏ đấy.
Bà cụ nài, rồi tôi dỗ thằng Thức cũng lắc đầu không dám ăn chỗ cơm còn lại. Hắn
sợ mẹ. Nhà này, mẹ chúng nó có quyền uy tối thượng. Biết vậy, nhưng tôi cũng sắp
trở thành kẻ sống nhờ...
Ngồi ở bếp, tôi hỏi vợ:
- Nhà mình còn thiếu của hợp tác xã bao nhiêu thóc nữa
em?
Cô ấy không trả lời tôi mà nói rất vô lễ:
- Có biết thế này, đái tòe tòe vào, chứ tội gì lôi về.
Cha đời! Bữa trước thì tuyên bố vớt được nấy ăn nấy, người ta mới hụp lặn xuống
nước lụt mà khở (gở) từng bông lúa. Nay lại giở trò giảm tỷ lệ!
Tôi vỗ về:
- Thôi! Lụt thì lụt cả làng, em ạ! Em nói xem, so với
tổng sản phải nộp, nhà ta thiếu bao nhiêu?
- Một tạ mười hai cân, em đã trình bày với anh Nhà đội
trưởng rồi. Thực tế mò được hạt nào đã ăn hết hạt nấy. Mấy lâu nay bán được đồng
rau nào mua ăn, không bán được thì nhịn. Đã nói khất rồi. Không cho khất, thì
nhà đấy có dỡ được, đến mà dỡ.
- Phải mềm mỏng, em ạ! Khéo bán khéo mua thua người
khéo nói! Gia đình mình, con cái mình còn ăn đời ở kiếp nơi đây.
Vợ tôi rền rĩ như sắp khóc:
- Chả nhẽ kiếm liều thuốc chuột, cho vào nồi cháo,
ăn hết cả nhà cho sướng cái đời...
Ngồi sưởi ở bếp rất lâu, vỏ cao su cháy tàn, đã vạc
hai ba đống than, mà chẳng ai muốn nói với ai câu nào nữa. Bà cụ ngồi lâu, mỏi
và chán chuyện bỏ đi nằm. Thằng Học làm toán xong, lấy cho bà nồi than, rồi
cũng rúc xuống bếp. Hắn đi bốc rơm lót ổ ngay cạnh bếp, lấy ván chắn rồi trải
chiếu, ôm chăn ra nằm.
- Ngủ đây mà ấm, bố ạ!
Trong giường thằng Út Văn khóc í óe. Hắn lại đái lạnh
đít rồi. Mẹ nó vào quả không sai. Nó được ôm ra bếp sưởi, nằm gọn trong lòng mẹ.
Gần một tuổi mà nó còn bắt nhá cơm bón và bú thì hơn con bê non. Lại nhai tòm tọp
thế đó! Tôi đùa với con để nó cười sằng sặc cho dịu cơn lo buồn.
Gần mười hai giờ khuya, cả nhà đi nằm. Tôi ngủ với
hai thằng oắt trong ổ rơm dưới bếp.
Có điều gì đó bồn chồn và nơm nớp...
Bỗng tiếng kẻng gõ giục giã liên hồi. Kẻng khắp xã:
từ đội 1 đến đội 15, như một sự bùng nổ dây chuyền. Tiếng loa phóng thanh mở hết
cỡ đọc bản tin, kế hoạch huy động lương thực của tỉnh và chỉ thị của tỉnh ủy về
công tác lương thực.
Hoàng Văn Nhân, đội trưởng đội 12, đọc trên loa danh
sách những nhà thiếu thóc chưa giao nộp cho hợp tác xã. Đèn đóm soi rừng rực ở
các ngã đường. Chó sủa ơi là chó sủa. Cũng cái loa phóng thanh ấy, có tiếng ông
chủ tịch xã gọi cán bộ về đội 12 hội ý.
Ông trưởng công an xã Nguyễn Đình Định gào rát cổ
trên loa, giọng giật giội gọi lực lượng dân quân, công an tăng cường về chi viện
cho đội 12, tạo đà cho đội hoàn thành chỉ tiêu huy động. Tôi rùng mình nghĩ đội
tôi là đội trọng điểm, nên cán bộ xã, hợp tác xã, vón cục cả về đây. Họ sẽ gõ
cho ra chục tấn thóc còn tồn sổ.
Gần một giờ sáng, công an, dân quân đã ập đến các
nhà nợ thóc. Tiếng chó sủa vang, tiếng lợn kêu èng ẹch như bị chọc tiết ở các
nhà gần quanh, làm thằng Út Văn khóc thét lên, ôm riết lấy mẹ. Thằng Thức cũng
im thin thít, nằm co trong lòng tôi không dám cựa. Bên nhà ông Ái, láng giềng
cách vườn nhà tôi một hàng rào, công an và dân quân đang lùng sục. Tiếng ông bà
Ái kêu xin và tiếng quát lác, tôi nghe rõ mồn một.
- Cứ bắt lấy cái xe đạp! Phích, xô, bắt ráo!
Ở cổng nhà tôi đã có bước chân rình rịch, con chó mực
đang có chửa bị quất, kêu ử ử.
Cạch cạch cạch.
- Chị cò Lộc, mở cửa ra!
Tiếng thằng bé trong buồng khóc thét. Thằng Thức
đang ôm tôi, nghe em khóc cũng òa khóc toáng lên. Thằng Học mười hai tuổi đã học
lớp tám rồi, mà cũng níu lưng tôi run bắn. Nghe tiếng quát lần thứ hai, từ nhà
bếp, tôi chạy lên. Một luồng đèn pin soi giữa mặt làm tôi lóa mắt, phải lấy tay
che.
- Có chuyện gì đấy, các bạn trẻ ơi?
- Thu thóc, thu thóc chứ còn gì, ông đừng hỏi vờ.
Vợ tôi đã mở toang cửa, tay ôm thằng bé ngất lịm. Một
anh, hai anh... bốn anh bạn trẻ ùa vào nhà. Anh đi đầu cao to, tóc cắt tăng gô,
mặc áo bông thùng thình, soi đèn pin rồi đánh diêm châm cái đèn hoa kỳ ở bàn thờ.
Có lẽ Tâm "hộ pháp" là người này. Phải, tôi đã thấy anh ta đứng chân
hộ vệ giữa, trong một cuộc đá bóng với xã khác. Tay anh cầm cái choòng sắt cỡ
ngón tay cái. Vợ tôi mời họ ngồi ghế. Bà cụ đang ốm ở giường bên cũng cố ngóc dậy,
run rẩy chào.
Theo danh sách đội báo, chị còn thiếu hơn tạ thóc.
Yêu cầu chị đem nộp ngay!
Bà cụ tôi đáp thay con dâu:
- Các bác các anh ơi! Có còn cái gì mà nộp. Các anh
và các bác không thấy đàn con hắn đói xanh đói trong đi à? Các bác không thấy
tôi cũng phát phù phát nề, vàng cây úa lá đây à?
- Chúng tôi không hỏi mụ nghe chưa?
Cả bốn người cùng soi đèn pin khắp nhà trong, nhà
ngoài, dưới bếp, bên chái. Hai người tuông soi cả trong vườn rau. Vợ tôi mếu
máo:
- Làm gì có lúa để ngoài ấy. Các anh xéo nát cả rau.
Tôi chạy ra trụ sở đội, định tìm cán bộ trình bày.
Chủ tịch Phê, bạn dạy học với tôi ngày trước, đi bộ đội về giải nghệ, vào cấp ủy,
đang đứng đấy. Thấy thế tôi mừng quýnh. Lại thấy cả Phùng Gia Miện anh họ tôi,
làm bí thư đảng ủy cũng có mặt, tôi càng yên trí. Nhưng thấy tôi họ quay đi lảng
tránh.
Anh Miện bảo nhỏ tôi:
- Chú về động viên gia đình thanh toán bằng đủ, nhà
mình là cán bộ. Không có thóc thì nộp bằng tiền. Lãnh đạo đã nhất trí cho nộp cả
bằng tiền rồi đó.
Tôi đang định nói: "Đã không có thóc thì làm
cóc gì có tiền", nhưng anh họ tôi đã dịu giọng:
- Ở đội trên, hắn bắt cả anh Thiện, anh ruột tôi, mà
tôi cũng phải điếc đi... "Mất mùa màng, lợi ích thứ ba của người lao động
phải hy sinh cho lợi ích của nhà nước". Đồng chí bí thư tỉnh ủy đã chỉ thị
thế, chú biết rồi đó.
Lúc ấy ở trụ sở, công an, dân quân đã khuân về nào
xe đạp, bàn ghế, tủ, chum vại, thùng tôn, lợn gà... để ngổn ngang ra tận ngõ.
Tên chủ nhà thiếu thóc đề chữ bằng phấn trắng vào các đồ vật: Ông Ất, ông Do Khả,
ông Hưng, ông Hồng, ông Khính (mẹ đẻ cô Hoa, mẹ vợ chú Được phó chủ nhiệm)... Mấy
con bò bị bắt cột gần đó sợ đèn, sợ đám đông cứ lồng lên, chực bút mũi. Chúng
xoay vòng quanh, mgửa lên mặt kêu "hấp bồ", "hấp bồ"...
Tôi loạng choạng đi về nhà, thấy người ta đang còn
soi đèn tìm rất kỹ. Tôi nói:
- Các người anh em soi tìm gì cho mất công. Nhà tôi
xin khất đến mai, tìm cái bán chác, nộp tiền bằng đủ.
Anh đầu tốp nháy nháy mắt ra hiệu.
- Đêm nay là đêm nay! Mai chúng tôi mất thưởng ai chịu
cho?
- Bắt cái xe đạp ni, bay!
Hai ba anh chạy lại. Tôi từ tốn ngăn họ:
- Các đàn anh ơi! Tôi không làm ruộng sản mà. Đây là
xe đạp nhà nước cấp cho tôi để tôi đi công tác. Các vị bắt cái này không được
đâu.
- Nếu chúng tôi cứ bắt thì sao?
Tôi loáng nghĩ được một mẹo. Rút cái "thẻ hội
viên Hội văn nghệ tỉnh" ra, tôi nói:
- Tôi phản đối! Tôi là "nhà báo"! Tôi sẽ
kiện lên tận ông Đồng.
Nước cờ của tôi không ngờ lại có hiệu quả. Họ im lặng.
Hẳn họ đã biết tên tôi dưới những bài đăng nào chăng.
Chợt vị "hộ pháp" nhìn chằm chằm vào cỗ
quan tài để dưới gầm bàn thờ, rồi đi lại, vừa gõ vừa hỏi:
- Cái gì trong này, chị Lộc?
Im lặng...
- Cái gì trong này, chị nói mau?
Vợ tôi ấp úng. Tôi muốn tắc thở.
- Có cái gì đâu...
Mấy vị hăm hở lại, đạp lật nghiêng một cái. Nắp văn
thiên bung ra, lúa chảy rào rào. Cả toán reo lên như một hiệp đào vàng trúng vỉa:
- A! Lúa! A lúa! Lúa! Anh em ơi. Ghê thật! Thế mà giả
nghèo giả khổ.
Mẹ tôi chống gậy vái dài:
- Van các anh! Cắn rơm cắn cỏ tôi lạy các anh! Lúa của
tôi. Đó là tạ lúa hai đứa con gái hắn mua góp lại cho, để hôm sau tôi chết, bà
con thương mà chạy đến để ăn lưng cơm sốt.
Thực ra là của hai bà chị trong đó mỗi người có mười
cân thôi. Ba mươi chín cân tiêu chuẩn hai tháng vừa qua tôi lấy về, còn lại là
hơn bốn mươi cân, vợ tôi đong để dành "hôm sau" cho bà.
Bà cụ nói như rên rẩm:
- Đã bảo xay phứa đi cho con nó ăn không nghe. Cứ
bóp mồm bóp miệng, để dành làm chi. Sống chả thấy đâu nữa là!
Một tay râu tóc lồm xồm hỏi:
- Chị có gánh đi hay không thì bảo?
Một tay khác tôi hơi quen mặt, đến trước vợ tôi lạy
lia lịa:
- Thôi em xin bà chị. Em đi làm ở đây thế này, nhưng
lại có bọn khác đến chỗ em làm ác y hệt. Nhà em cũng thiếu mà. Chị không gánh,
để cánh này bê cả hòm ra, chị phải chịu hai chục công là ít, chưa nói phạt tiền.
Họ xúm vào khiêng bàn thờ ra, để lôi hòm lúa. Bất đồ
hai thằng Học và Thức từ bếp tuôn lên, ôm lấy tay chân chư vị, van rối rít.
- Cháu van các chú! Các chú đừng lấy lúa này đi. Lâu
nay các cháu phải nhịn để dành bữa sau cúng cỗ bà, làm ma bà!
- Buông ra đi! Ô hay, đồ con nít!
Bà cụ loạng choạng đi lại, giơ gậy cản:
- Các ông không thương trẻ, thì các ông thương lấy
thân già, để lấy phúc đức cho con cháu.
Vì họ đá vấp gậy, lại yếu như con căng cắc lột, bà cụ
ngã chỏng queo như chiếc ghế đổ.
- Ối Đảng ôi là Đảng ôi! Chính phủ ôi... Trông xuống
mà coi...
Tôi xốc mẹ lên giường, bịt mồm cụ lại:
- Mẹ! Mẹ không được la như thế! Đây không phải Đảng!
Đảng ta không làm thế. Đảng không chủ trương thế này!
Tôi nói vậy và ngoặp hai hàm răng vào cổ tay mình để
kìm giữ cái gì cứ chực tung ra. Hai vợ chồng xúc hết lúa ra thúng bì. Dặn thằng
Học trông em, ngó bà, tôi cùng vợ hì hục gánh thóc ra trụ sở nộp...
Đoạn cuối này tôi dành cho anh Quang.
Lê Trung Quang ơi! Anh có thể giấu cái bi kịch của
gia đình anh, nhưng tôi không còn có thể che giấu nỗi đau của nhân dân bất hạnh.
Dù sự tiết lộ này có làm mất cái chức huyện ủy viên của anh, thì tôi cũng thấy
cứ phải nói ra.
Chuyện thật của nhà anh đây: lúa vay ăn còn nợ bảy tạ,
con Lâm, thằng Sơn phải đi mò hến từng bữa, chị ấy nấu bánh đúc đi các làng đổi
lúa. Anh mà nói ra, người ta cho là anh bêu riếu. Việc thật ở nhà tôi đêm 26
tháng 11 năm 1983, người ngoài cuộc hẳn cho là mình bịa. Cho đến nay, mỗi khi
nghĩ đến, tôi cứ thảng thốt hỏi mình: "Cái đêm hôm ấy... đêm gì?"
Cuối năm 1987
PHÙNG GIA LỘC