Nếu đắn đo một yếu
tố nổi bật ở Nguyễn Tùng Linh ngoài mảng thơ phản ánh đời sống lao động sản
xuất, có lẽ phải nhắc đến dư vị ưu tư thế sự. Không hề có ý định giải thiêng,
Nguyễn Tùng Linh chỉ thêm một chút băn khoăn trước biến thiên thời cuộc khôn lường
và số phận con người trớ trêu. Ông bần thần đối thoại với tiền bối Nguyễn Du mù
xa dĩ vãng: “Trong triều vẫn thừa rượu rửa chân/ Ngoài dân vẫn sắn khoai trừ bữa/
Trong triều thịt dư mang ném chó/ Ngoài dân cháo loãng húp vòng quanh/ Cướp
ngày là quan, cướp đêm là giặc/ Cô Kiều dẫu sống lại rồi vẫn chưa hết trầm
luân”.
NGUYỄN TÙNG LINH VÀ NHỮNG CÂU THƠ TRẦN MÌNH TRONG BỤI
LÊ THIẾU NHƠN
Tính từ những câu thơ đầu
tiên được viết với tư cách một cán bộ kỹ thuật xây dựng ở Hải Phòng, thi sĩ
Nguyễn Tùng Linh đã có nửa thế kỷ dan díu thi ca. Thành phố cảng những năm vừa
xây dựng vừa chiến đấu đã tạo ra một thế hệ cầm bút được xưng tụng “nhà thơ
công nhân”, mà Nguyễn Tùng Linh là một gương mặt tiêu biểu. Bây giờ, thi sĩ
Nguyễn Tùng Linh đã bước qua tuổi cổ lai hy, nhìn lại hành trình sáng tạo của
ông vẫn thấy không khí sôi sục một thời với nhiều nét đẹp cống hiến!
Năm 1976, lúc 30
tuổi, Nguyễn Tùng Linh mới có tập thơ đầu tay “Hương biển” in chung với Trúc
Chi. Thế nhưng, ngay từ những bài thơ lẻ in rải rác trên báo, Nguyễn Tùng Linh
đã chứng tỏ phong cách của một thi sĩ: “Đêm như con ngựa hoang lồng ngoài ngõ/ Kỷ
niệm như cuốn vở bỏ quên không tay người dở/ Gió lật từng trang ấu thơ…/ Tiếng
gió đập then ngang đòi cửa/ Lùa vào ta một nỗi kinh hoàng”. Do đặc thù nghề
nghiệp và do tác động môi trường, Nguyễn Tùng Linh gắn bó với đời sống sản xuất
và đưa vào thơ tất thảy bộn bề của những con người hăng say lao động. Nguyễn
Tùng Linh được mặc định là một nhà thơ công nhân ở chính những tiêu đề bài thơ
như “Chia tay trên công trường”, “Xưởng mộc bên bờ biển”, “Khúc ca của những
người thợ đào móng”, “Thơ tiễn con tàu xuống nước”, “Gửi em và thị xã than” hoặc
“Những cô gái đập đá ở mỏ”… Nguyễn Tùng Linh tự nguyện gánh vác sứ mệnh phản
ánh những sắc thái lấm láp của bao giọt mồ hôi, và ông gọi sáng tác của bản
thân là “Những câu thơ trần mình trong bụi” với tâm tư: “Mai sau ai người sẽ đọc
thơ tôi/ Đến những dòng này xin đừng trách cứ/ Rằng có nhà thơ sau thời chống Mỹ/
Đã để thơ mình ca ngợi bụi bay/ Bởi bấy giờ nhà máy của bạn đâu như nhà máy của
tôi/ Bạn đâu biết những ngày chúng tôi vất vả/ Từ gia tài nghèo nàn của quá khứ/
Chúng tôi đã làm việc hết sức mình…”.
Dẫu “Kéo lưới
đêm cùng những người đánh cá” hay “Viết tặng những người tuần đường” thì hình ảnh
người lao động trong thơ Nguyễn Tùng Linh luôn mang một đặc điểm chung: “Giữa
khó khăn chồng chất khó khăn/ Vẫn trong suốt một tấm lòng người thợ/ Với duy nhất
một thước đo phẩm giá/ Là con số chỉ tiêu sản phẩm mỗi ngày”. Không khí công
nghiệp hóa ùa vào thơ Nguyễn Tùng Linh vừa rậm rạp vừa vạm vỡ, cả trong từng hầm
mỏ “Anh lại về với than, anh lại về với mỏ/ Lái xe ủi lên tầng hay xuống moong
sâu/ Và hòn than - nỗi nhớ gửi cho nhau/ Bỗng ngỡ ngàng/ Nhận ra mùi hương dâu
da chưa bao giờ thơm thế/ Giữa lòng thị xã than” và trên từng nhịp cầu: “Từng
thanh sắt nặng nề ta gắn chặt/ Hai phía đầu cầu nhích gần thêm/ Lửa hàn rạng rỡ
từng khuôn mặt/ Ta gọi mặt trời về giữa đêm/ Lòng ta bỗng hóa muôn sợi cáp/ Và
ngực người thành tảng bê tông”.
Bằng sự đồng cảm
và bằng sự mến thương, thi sĩ Nguyễn Tùng Linh có nhiều bài thơ viết về những nữ
công nhân. Nếu cô gái lái xe lu trên đảo Cát Bà hối hả: “Và con đường cứ đi mãi
về xa/ Như dải lụa vắt ngang hòn đảo biếc/ Em vẫn lái xe lu trong mưa dầm nắng
gắt/ Cho chóng đến ngày gặp gỡ quê anh” thì cô thợ xây trên công trường đô thị cũng
náo nức: “Có đi qua những ngày mưa dông/ Nhìn trời mây trắng đục, dạ bồn chồn/
Lòng thấy nóng hơn cả khi nắng đốt/ Nhớ tiếng xe đi tung làn bụi gắt/ Nhớ tiếng
rè rè của chiếc máy vận thăng/ Nhớ mạch vữa đều như sợi chỉ căng/ Nhớ bàn tay
em bắt gạch, xây tường/ Lại da diết một nỗi niềm – nhớ nắng/ Em lên tầng nhấp
nhô nón trắng…”. Không thể phủ nhận, hình ảnh nữ công nhân san sẻ tình yêu lao
động và tình yêu đôi lứa đã tạo nên cảm hứng riêng cho thơ Nguyễn Tùng Linh: “Em
ở lại với những công trình vượt lên đổ nát/ Với tiếng hát trên giàn giáo cao em
bắc/ Với mẻ bê tông đang rắn lại niềm tin/ Với những ô cửa màu hồng, ô cửa màu
xanh/ Và một tình yêu như sắc ngói bao giờ cũng đỏ…”.
Dùng những chất
liệu khô khốc của hoạt động công nghiệp để khỏa lấp vần điệu vốn không dễ dàng.
Thỉnh thoảng Nguyễn Tùng Linh chọn góc nhìn mềm mại khác, ví dụ viết về cánh đồng
muối: “Một sớm mai mặt trời đến - sững sờ/ Gặp những bông hoa trắng ngời trên
cát/ Những cánh muối xòe ra từ lòng biển...”. Theo sự vận động phát triển đời
thợ và đời thơ, Nguyễn Tùng Linh nhận ra: “Người đào than chết bởi sập hầm/ Người
đánh cá biển vùi trong bão tố/ Người làm thơ ngụp vào trong rừng chữ/ Biết bao
đòn rình rập phía sau lưng”. Vì vậy, thi sĩ Nguyễn Tùng Linh quyết tâm thay đổi
thơ mình, nhìn xa hơn, nghĩ sâu hơn, thương nhiều hơn, lo đầy hơn. Thi sĩ Nguyễn
Tùng Linh bắt đầu giật mình “Biển mùa đông như mắt người đàn bà góa/ Có nỗi
khao khát bỏ quên”, và nhanh chóng dằn vặt với những ngổn ngang chua xót, từ cảnh
vật chênh vênh “Vườn xưa cây chặt hết/ Bầy chim bỏ đi rồi/ Xóm ngõ lụt ánh điện/
Vầng trăng hóa đơn côi” đến con người chơi vơi “Bây giờ làng đã mùa đông/ Gái
quê ra phố mà không thấy về”.
Bởi thi sĩ Nguyễn
Tùng Linh trực tiếp lặn ngụp giữa những âm thanh công nghiệp, nên thơ ông lắm
lúc dềnh dàng vì phải chứa đựng quá nhiều dữ kiện. Nhược điểm ấy được khắc phục
tương đối, sau khi thi sĩ Nguyễn Tùng Linh theo học Trường viết văn Nguyễn Du
khóa 1979-1983. Khi thơ Nguyễn Tùng Linh biết thu vén câu chữ, thì phẩm chất
tài hoa lại hiện ra. Chỉ cần phác thảo vu vơ mà có một bức tranh: “Gió đưa
hương bồ kết/ Quay phía nào cũng thơm/ Dọc những lối mùa xuân/ Vụng về hoa xấu
hổ/ Ngọc mưa kết long lanh/ Trên những tơ nhện cũ”. Chỉ cần nhấn nhá lơ đãng mà
có một tâm trạng: “Đường gập ghềnh, hết xuống dốc lại lên/ Thị xã hẹp quanh
quanh vài phố cổ/ Một vạt nắng chiều vừa buông vội vã/ Đã sững sờ: mây trắng vắt
ngang vai”. Mặt khác, những cơn cớ trữ tình khi Nguyễn Tùng Linh biết chắt lọc,
cũng trình bày được từng khoảnh khắc nôn nao “Tháng năm còn đó nỗi đau/ Tôi về
chốn cũ, vẫn màu hoa xưa/ Và tôi đứng lặng. Tôi chờ/ Biết đâu em đến bất ngờ…
như trăng” hoặc từng phút giây nuối tiếc “Gió heo may áo khép hờ/ Em đi buổi ấy
trăng mờ đêm đông/ Chưa mùa hạ đã mưa giông/ Mình anh đứng lặng chớp hồng chân
mây”.
Nếu đắn đo một yếu
tố nổi bật ở Nguyễn Tùng Linh ngoài mảng thơ phản ánh đời sống lao động sản
xuất, có lẽ phải nhắc đến dư vị ưu tư thế sự. Không hề có ý định giải thiêng,
Nguyễn Tùng Linh chỉ thêm một chút băn khoăn trước biến thiên thời cuộc khôn lường
và số phận con người trớ trêu. Ông bần thần đối thoại với tiền bối Nguyễn Du mù
xa dĩ vãng: “Trong triều vẫn thừa rượu rửa chân/ Ngoài dân vẫn sắn khoai trừ bữa/
Trong triều thịt dư mang ném chó/ Ngoài dân cháo loãng húp vòng quanh/ Cướp
ngày là quan, cướp đêm là giặc/ Cô Kiều dẫu sống lại rồi vẫn chưa hết trầm
luân”. Rồi ông lắng động xao xác cho những cô gái Đồng Lộc: “Tất cả các mỹ
từ không làm các em sống lại/ Cả danh hiệu, huân chương, hương khói, tượng đài/
Họ đến với các em mà sao như trẩy hội/ Xe cộ lớn thế kia, quần áo đẹp thế này/
Có đâu biết nỗi đau bom vằm da xé thịt/ Ngước mắt nhìn trời thảng thốt gọi: Mẹ
ơi!”. Rồi ông ngậm ngùi cho những kiếp người đang có mưu cầu khác nhau: “Những
tướng lĩnh bây giờ cụng ly bàn tính chuyện làm ăn/ Trên mảnh đất năm xưa giành
nhau từng ngọn cỏ/ Đất đã trộn máu người, dù máu của ai nữa/ Cũng là nắm đất
đau thương trên xứ sở bị đọa đày”. Và đáng kể nhất trong mảng thơ này của thi
sĩ Nguyễn Tùng Linh là bài thơ “Trước lăng tẩm những ông vua một vương triều đã
mất” có sức khái quát: “Ơi đất nước những anh hùng đã khuất/ Có giữ đâu một phần
đất cho mình/ Nơi họ ở là nơi trong huyền thoại/ Trong bài ca của mẹ hát ru
con/ Những thành quách, lâu đài rồi hoang phế/ Chẳng có gì ngoài quy luật tự
nhiên/ Chỉ lúa đồng là thơm hương vĩnh cửu/ Và lòng người – những lăng tẩm vạn
niên”.
Thi sĩ Nguyễn
Tùng Linh không phải tạng người lấy mơ mộng và tưởng tượng làm nền tảng sáng tạo.
Thi sĩ Nguyễn Tùng Linh áp trái tim mình vào thực tế, để thực tế bật lại những
câu thơ. Bồi hồi “Đêm trăng ở Sa Vỹ” cực đông bắc đất nước, ông cảm nhận: “Bỗng
thiêng liêng hạt cát giữa tay mình/ Tổ quốc ơi, trái tim tôi thầm gọi/ Giữa tay
mình: cát lấp lánh ánh trăng”. Bước chậm qua “Làng biên giới mùa xuân”, ông thảng
thốt: “Chốt của em dưới một gốc hoa đào/ Giặc tràn lên bao lần đều gục ngã/ Tôi
đến đây, lại một mùa hoa nở/ Soi mắt em để trong lại niềm tin”. Và ông “Gửi
Móng Cái” với tin yêu về bản lĩnh trường tồn của dân tộc: “Sông Ca Long như
dòng suối hiền lành/ Nước trong vắt có thể nhìn tận đáy/ Quên sao được nhịp cầu
biên giới/ Mắt hằn thù bầy cú vọ nhìn sang”.
Trong những tác
giả thơ Hải Phòng thành danh, thi sĩ Nguyễn Tùng Linh không bản năng ngây ngất
như thi sĩ Thanh Tùng và cũng không ưa chuộng kỹ thuật như thi sĩ Thi Hoàng. Phương
pháp đắc dụng để thi sĩ Nguyễn Tùng Linh tồn tại là “trần mình trong bụi” để nỗi
đời xen lẫn nỗi thơ: “Trang giấy trắng bời bời bao tâm sự/ Chữ ngổn ngang như đồng
đất mới cày/ Thơ đã gieo, hẹn đến mùa gặt hái/ Khi trong lòng gió lạnh đã xa
xôi”./.