Tôi lặng lẽ kiếm viên gạch thất làm chiếc ghế để ngồi, chăm chăm nhìn ông chuốt bình hoa. Cái mầu đất vàng ươm và pha lẫn sắc đỏ hồng, tạo ra cái bình hoa độc nhất vô nhị. Tay vê đẩy bàn xoay. Tay lẹ làng chuốt bình. Đoạn ông đứng thẳng, rướn người và nheo mắt qua cặp kính trắng, ông ngắm nhìn với vẻ khoái trá.
- Cậu biết đất làm bình gốm này lấy ở đâu không? Đất sét Cầu Nét đấy. Chỉ đất sét Cầu Nét mới có vẻ đẹp kỳ diệu này!...
Ông nói, đoạn lại bập bập, rít cho hết điếu thuốc, rồi tay ông lại vê vê cuốn cuốn điếu thuốc lá khác. Ông mời tôi uống nước. Nước chè pha đặc xít. Ông nói "Mình mày mò từ sáng sớm đến giờ đấy!".
Khi ấy, nắng đã quá đỉnh đầu. Bóng râm giọt gianh mái ngói đã đổ vệt dài xuống sân gạch cũ. Chuyến tàu chiều ngược Lạng Sơn đã rúc còi rền rĩ ngoài ga Từ Sơn. Cái làng Phù Lưu đã xốn xang bước chân người tan buổi chợ Giầu.
Đấy là ngày nghỉ của ông. Sau một tuần làm việc căng thẳng ở ngoài Hà Nội, ông dành trọn vẹn cả ngày chủ nhật về quê sống với người vợ hiền thục, sống với mái nhà ngói rêu mốc, sống với cái bể nước mưa trong veo nép dưới giàn trầu không. Và ông có thú vui chuyện trò cùng đất sét. Và tôi cảm thấy, khi ấy chỉ có đất mới hiểu ông.
Ông nói:
- Mình vốn là học trò trường Mỹ thuật. Ấy trời run rủi sao mình lại đi làm báo làm văn .
Thì ra thế, không phải bỗng dưng ông dành cả ngày chủ nhật đạp xe lên Nét chở đất về, rồi ngâm, rồi ủ, rồi nhào trộn, rồi vật thành cối đất để chủ nhật sau lại về để chuốt, để nặn ra các bình hoa theo ý thích của chính mình.
Cái làng Phù Lưu của ông, như tự xửa xưa, cánh đàn ông thật nhàn tản, đàn bà con gái thì con cón chợ xa chợ gần kiếm tiền về nuôi chồng con. Nhưng những người con gái Phù Lưu không chỉ nức tiếng về đảm đang tháo vát, mà còn nổi tiếng là "mảnh mai hay hạt", là duyên dáng và sắc nước. Người vợ đảm của ông, thời thiếu nữ vốn là cô gái đẹp và dịu dàng. Tuy tuổi cao, bà vẫn là chủ nhiệm hợp tác xã thủ công mỹ nghệ của làng. Bà tháo vát lo hết công to việc lớn trong nhà, để ông dồn tâm sức làm văn làm báo.
Ông ngún hết điếu thuốc. Lại vê tiếp điếu khác, lại châm lửa hút tiếp. Thuốc lá là nhu cầu không thiếu được với ông dạo đó. Tôi toan hỏi ông về một vài người này người kia là mẫu nhân vật trong các truyện ngắn của ông, trong tập "Trai làng Quyền", nhưng thấy ông quá say sưa kể về giá trị và vẻ đẹp của đất sét Cầu Nét, nên tôi không dám hỏi. Ông lại hỏi tôi "Cậu có biết giá trị của đất sét này không? Nó có vẻ đẹp sâu đằm mà lộng lẫy. Nó quánh đặc mà lại xốp. Đố hoạ sỹ nào pha được cái màu kỳ lạ này!" Tôi ngắm nhìn những chiếc bình hoa ông nặn bằng đất sét Cầu Nét, nghe ông giảng giải, tôi mới hiểu thêm vẻ đẹp của nó. Trước kia, tôi chỉ biết cầu Nét là cây cầu bắc qua sông đào Ngũ huyện. Qua bên kia sông, là làng quê bà ngoại của tôi. Làng nhỏ bên sông có nghề nấu kẹo mầm rất ngon. Tuổi thơ mỗi bận tôi theo mẹ tôi về thăm bà ngoại thường qua cầu Nét, mẹ tôi lại lẩm nhẩm như đọc câu thần chú "Cơn mưa cầu Nét quét nhà không kịp. Con lạy trời đừng đổ mưa để mẹ con con qua sông...". Bà ngoại tôi, mẹ tôi giờ đã khuất núi cả rồi. Con sông vẫn trơ màu bùn đất. Tôi đâu biết moi sâu qua lớp bùn đất kia, là lớp đất sét có màu đỏ sậm hồng hồng đến là thâm trầm và kiêu kỳ. Có lẽ chỉ có ông - nhà văn Nguyễn Địch Dũng, kể cho tôi nghe cái giá trị và vẻ đẹp của đất sét ấy.
Khi còn là học sinh cấp hai, tôi học cùng lớp với Hương, con gái nhà văn Nguyễn Địch Dũng. Hương vốn là cô học trò lặng lẽ và kín đáo, tôi ít để ý. Nhưng một buổi học ngoại khoá, Hương có mang theo tập truyện ngắn "Trai làng Quyền" tranh thủ đọc ở lớp; khi biết tác giả tập truyện "Trai làng Quyền" là bố của Hương, thì tôi nể Hương vô cùng. Tôi mon men được làm quen nhà văn Nguyễn Địch Dũng từ đấy. Trong con mắt suy tưởng của tôi khi ấy, nhà văn là cái gì vinh quang và rực rỡ mà tôi không thể hiểu hết. Ấy vậy, khi được biết ông, lại thấy ông giản dị và bình lặng như người thợ thủ công. Cái làng Phù Lưu quê ông cách làng quê tôi một đường tầu hoả. Khi chuyến tầu xuôi sớm qua ga Từ Sơn, ấy là lũ học trò chúng tôi toán loạn từ các ngả làng đổ đến trường Đình Bảng. Ngày ấy, cả huyện có một trường cấp II, III. Từ khi biết Hương là con gái nhà văn, niềm khao khát hướng tới nghề văn càng thôi thúc và bốc cháy trong tâm hồn tôi. Làng Phù Lưu, cái làng cũng đặc biệt, có hai nhà văn danh tiếng. Ấy là ông Kim Lân và ông Nguyễn Địch Dũng. Nếu kể rộng ra, phải nhắc tới tên các ông Hoàng Tích Chu, Hoàng Tích Linh, Hoàng Tích Chỉ... và dịch giả Thuý Toàn, nhà thơ Hoàng Hưng sau này. Lại còn có ông nhạc sỹ Hồ Bắc, nhà quay phim Nguyễn Đăng Bảy kỳ tài.
Ông Dũng và ông Lân cũng có nét hao hao như nhau. Cả hai ham và làm văn chương rất sớm, cùng xuất phát từ làng quê ven phố huyện có được học hành rồi làm văn chương và sớm theo cách mạng. Ông Kim Lân sinh năm 1921, ông Nguyễn Địch Dũng sinh năm 1925. Nhà hai ông cách nhau một sân đình rộng mênh mông có gốc đa gốc đề cổ thụ, lá xanh um quanh năm và mùa xuân mở hội làng có rước xách linh đình ở đấy. Trước cách mạng, ông Dũng có theo học Trường cao đẳng mỹ thuật. Sau cách mạng, ông sớm đi làm báo, làm công tác tuyên huấn. Hoà bình lập lại (1954), ông Nguyễn Địch Dũng về công tác liên tục ở báo Nhân Dân cho đến khi ông mất. Trước khi về công tác ở Ban Văn hoá văn nghệ của báo, ông là một phóng viên chuyên viết về mảng nông thôn. Có lẽ vốn sống tuổi thơ, vốn sống thực tế báo chí, đã dẫn ông tới mảng sáng tác văn học về đề tài nông thôn.
Ông là người viết không nhiều. "Hai vợ", tập truyện ngắn, 1960. "Trai làng Quyền", tập truyện ngắn, 1962. "Người ở nhà" tiểu thuyết, 1974. "Doan" tập truyện ngắn, 1979. Đọc truyện nào của ông, tôi cũng thấp thoáng nhận ra cảnh trí làng xóm và con người dân quê ông. Đó là những tác phẩm văn học viết về nông thôn thật đặc sắc, không lẫn với bất kỳ tác phẩm của các nhà văn khác. Có người nói "Nguyễn Địch Dũng đi sâu trong mỗi con người, mỗi cuộc sống. Những mối quan hệ gia đình, chòm xóm, tình vợ chồng, mẹ con... để rồi từ khuôn khổ gia đình, riêng tư mở rộng ra những vấn đề chung, những mối quan hệ xã hội rộng lớn, theo xu hướng thành tâm khẳng định cái mới, cái đẹp của cuộc sống". Đọc những nhận định trên, tôi thấy rất đúng với ông. Nhưng tôi lại nghĩ giản dị khác, là ông đã phác hoạ đúng cái vùng quê Từ Sơn của tôi. Cụ thể hơn, là cái làng Phù Lưu quê ông. Ở đấy, một làng cổ, hội hè đình đám linh đình, nhiều hủ lậu và nhiều cách tân. Thân phận người phụ nữ thời nào vẫn còn vất vả. Còn cái cánh đàn ông xưa vẫn còn đầy thủ cựu, ham hố, thích làm lý trưởng, chánh tổng, ông cai, ông ký... Ấy là cái vòng tục luỵ công danh quyền chức nó sai khiến. Rồi cỗ bàn rượu chè, trà thuốc, tổ tôm. Ông là người cũng đặc biệt. Một tuần làm việc cật lực ở tờ báo lớn nhất nước, ngày nghỉ, lại về cái làng quê thân yêu của mình, la cà chè thuốc nhà này nhà kia, có khi sẵn sàng nhập chiếu tổ tôm thâu đêm, để nghe chuyện làng, hiểu thêm về làng. Rồi ông lại lặng lẽ đưa người và cảnh làng quê mình vào trang sách khi nào không rõ. Những trang sách của ông, câu chữ mộc, mà cứ tươi rói, sống động .
Vì kính trọng ông, thích được tiếp xúc với ông, nên chủ nhật tôi thường hay từ Hà Nội về quê, rồi sang làng Phù Lưu mong gặp ông. Những ngày được tiếp xúc với ông, tôi càng thấy ông là người cương trực, khảng khái. Mọi việc ở đời mà đa phần con người đều mắc luỵ, ấy là công danh và tiền bạc. Với ông, tôi lại cảm nhận thấy điều đó đơn giản và quá nhẹ nhàng. Nhiều người ở cùng cơ quan ông đều thừa nhận ông là người thẳng thắn, khí khái. Người có tính ấy, hẳn là người tốt rồi. Nhà thơ Thợ Rèn, người từng cùng làm báo lâu năm với ông, đã nói "Cách sống của ông Nguyễn Địch Dũng đã tới độ Lão Trang".
Có một vài lần tôi tò mò hỏi ông là ông dành thời gian sáng tác vào lúc nào? Ở cơ quan thì bận thế. Về quê, lại đắm say vào nặn bình hoa đất sét để chơi và tập tục cỗ bàn làng xóm kéo ông đi. Ông không trả lời rành mạch, mà chỉ cười cười. Có lần tôi được ông cho xem bản thảo một truyện ngắn ông đang viết dở. Nhìn những gạch gạch xoá xoá mà tôi phát khiếp với tinh thần lao động của ông. Làng tôi có mấy ông giáo già, từng là bạn học thuở thơ với ông, đều nói "Cái ông Nguyễn Địch Dũng khi đi học thì nghịch, nhưng học giỏi lắm. Ngay khi còn là học sinh, ông Dũng đã mê viết văn viết báo rồi!".
Ngôi nhà ngói năm gian của gia đình ông xây dựng theo lối cổ, còn đủ cả cột cái cột con, nào kèo nào bẩy, tôi ngó vào gian buồng, có một cái bàn viết khiêm nhường, cái xích đông để sách khiêm nhường với dăm cuốn sách xếp ngay ngắn. Tôi đã nhận ra chỗ làm việc của ông. Sau những vui buồn, sau bao hiện thực tươi rói của làng xóm, ông lặng lẽ ngồi ở góc ấy, sáng tạo trên trang viết. Tôi còn nhớ lời ông khuyên tôi "Đã làm văn chương, phải sống hết mình và viết hết mình. Mỗi nhà văn, nên đào sâu vào một mảnh đất của chính mình"
Ông nói nhanh và gọn. Rồi ông lại cắm cúi với cái bình hoa đất sét mà ông đang nặn dở. Vân đất mơ hồ ánh lên sau bàn tay chuốt, ông cười khoan khoái. Thì ra, sau bao họp hành căng thẳng, bao số liệu báo cáo chồng chất rối mù, bao đời thường rình rập và cám dỗ của phố phường, ông lại lánh mình về cái làng cổ ven phố huyện của ông. Khi rảnh rỗi ông lại chơi với đất và tôi cảm thấy những tảng đất sét kia như nhận được ngôn ngữ của ông, tình cảm của ông.
*
* *
Câu chuyện thoáng ngày nào, ấy mà đã bao năm trời. Tôi không rõ gốc đào phai bên hiên nhà, khóm cúc vàng đại đoá ở góc sân nhà ông có còn không, chứ ông đã là người thiên cổ. Cuốn sách ngày nào ông tặng tôi, nay giấy đã ngả màu. Ấy vậy, mỗi khi giở ra đọc lại, tôi vẫn như thấy ông đang ngồi nói chuyện cùng tôi. Mấy bình hoa bằng đất sét Cầu Nét mà ngày nào ông say sưa nặn, không rõ gia đình ông còn giữ được không, chứ niềm say mê trước công việc của ông thì tôi không thể nào quên được. Tôi lại hình dung ra cái dáng đi của ông, chiếc xe đạp khung nam có ghi đông vểnh, ông ngồi đạp xe với vẻ ngay ngắn. Mắt ông nhìn thẳng, thỉnh thoảng đảo nhìn hai bên đường. Đấy là con đường nối liền quê ông với thủ đô, cũng là con đường nối liền từ thực tế đời sống tới trang viết của ông. Cuộc sống bốn bên nhốn nháo, tốt xấu lẫn lộn. Ông vẫn thung dung đạp xe, như một mình lặng lẽ đi trên con đường sáng tạo đơn độc của riêng mình. Đời người sáng tác, có được cái say mê mà điềm tĩnh như ông, mấy ai có được.