“Tuổi già hạt lệ
như sương”, câu thơ của cụ Nguyễn Khuyến khóc cụ Dương Khuê, đã vận vào tình bạn
của ông. Những cuộc chia tay bè bạn cùng thế hệ, đôi lúc làm Nguyễn Xuân Khánh
buồn sững lại. Các ông Mạc Lân, Lê Bầu, Bùi Ngọc Tấn, những người bạn chữ nghĩa
từ thời trai trẻ của ông đã đi xa. Buổi tiễn đưa nhà văn Bùi Ngọc Tấn, ông cùng
mấy người bạn chí cốt từ Hà Nội xuống từ hôm trước. Hải Phòng, mảnh đất quen
thuộc, nhiều bạn bè, nhiều kỷ niệm, vậy mà ông chả muốn đi đâu cả. Ngồi trong
đám đông chờ giây phút tiễn biệt người bạn văn chí cốt, vẻ mặt ông hoang vắng
như sa mạc…
NGUYỄN XUÂN KHÁNH TUỔI GIÀ HẠT LỆ NHƯ SƯƠNG
VŨ TỪ TRANG
Những năm trước,
nhà văn Nguyễn Xuân Khánh thường hay đi về vùng quê Kinh Bắc cùng tôi. Vùng đất
như đậm đặc màu sắc Phật giáo. Rất nhiều ngôi chùa đã ghi dấu ấn thời gian, như
chùa Dâu, chùa Bút Tháp, chùa Phật Tích, chùa Tiêu... bên dòng sông Đuống. Bên
kia sông Cầu, sông Thương, có chùa Bổ Đà, chùa Vĩnh Nghiêm. Những ngôi chùa
này, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh và tôi đã từng đến đôi ba lần. Ngoài những ngôi
chùa nổi tiếng, như ở bất kỳ làng nào, xã nào vùng Kinh Bắc, đều có chùa. Những
ngôi chùa trầm mặc hàng dăm, bảy trăm năm, tạo không gian tâm linh cho con người
trong làng xã. Có thời, một số nơi, dỡ chùa, di chuyển, sát nhập hai ba chùa
trong xã, làm một chùa. Ngay Trang Liệt quê tôi, xưa có hai chùa: chùa trên và
chùa dưới. Đầu thập kỷ sáu mươi thế kỷ trước, nhân sau vụ lụt, chính quyền thôn
quyết định dỡ chùa trên, chuyển về sát nhập với chùa dưới. Bao tượng phật được
khênh rước về tập trung một chốn. Một số tượng gỗ, lâu không chăm nom, có dấu
hiệu mối mục. Một số tượng phật được đắp bằng đất sét, bị ngập nước, tượng đổ
ngả nghiêng. Nhìn những pho tượng sơn son thếp vàng, uy nghi và thiêng liêng vậy,
tôi đâu ngờ lại được đắp bằng đất sét. Nhìn những pho tượng đắp bằng đất sét, bị
đập bỏ, lòng tôi trào lên một nỗi nghẹn ngào. Lại nhớ về câu ca dao cổ “Hòn đất
mà cất thành Phật...”.
Những năm gần đây, vùng quê Kinh Bắc lại rộ lên phong trào tu bổ chùa cũ, xây dựng
chùa mới. Mỗi ngôi chùa ra đời, có nguyên do riêng. Một số nhà doanh nghiệp
giàu có, cung tiến xây chùa. Trong Tam bảo, ngoài việc thờ Quan Âm tam thế, còn
có gian thờ đức thánh Trần Hưng Đạo, chủ tịch Hồ Chí Minh, đại tướng Võ Nguyên
Giáp. Hỏi sao sắp đặt vậy? Các vãi nói rằng, những người bỏ tiền ra họ yêu cầu
xây dựng theo ý họ!
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh bảo rằng, thời nào cũng thế thôi, mọi lộn xộn rồi nó
sẽ tự dần sắp xếp lại. Ông thường thích về thăm những ngôi chùa cổ. Thật thú vị,
khi được đặt bàn chân trần, trên nền chùa tôn tạo bằng đất nện. Thời gian, nền
đất nện đã lên màu đen bóng. Những gốc đại già nua, những hương hoa ngâu, hoa mộc,
ẩn hiện thấp thoáng cùng hương na, hương bưởi. Hương thơm nhẹ, thanh tao và trầm
mặc. Chúng tôi được thưởng ngoạn không gian u tịch và lặng lẽ chốn cửa thiền, gạt
bỏ bao âm thanh tạp chất của đời thường.
Chùa quê tôi, nhộn nhịp nhất, là ngày rằm tháng giêng. “Cúng cả năm, không bằng
rằm tháng giêng”. Chuẩn bị cho tuần cúng rằm, các vãi, các bà, các chị trong
làng bận rộn từ sau ngày tết. Ban chước tác được lập ra giúp nhà chùa đóng oản,
thổi xôi, nấu chè, sắp cỗ chay... Mọi việc, đâu vào đấy. Tự nguyện, mà
thành tâm. Bây giờ, việc cung tiến nhà chùa đã đổi thay. Đa phần tiền mặt.
Có cả tiền séc, tiền chuyển khoản. Chứ như những năm trước, sau tết, tíu tít cảnh
các vãi, các mẹ, các chị đội gạo, đội đỗ ra chùa. Sản vật quê, chọn loại ngon
nhất, đem cung tiến nhà chùa. Số gạo, đỗ cung tiến, dư thừa việc sắp lễ cả
năm. Ca dao cổ “Ba cô đội gạo lên chùa. Một cô yếm thắm...” hẳn xuất phát từ cảnh
hội chùa ngày xuân.
*
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh từng kể chuyện làng quê Cổ Nhuế thuở trước, cho tôi
nghe. Cái làng ven đô, lúp xúp và bề bộn, vừa yên tĩnh vừa xáo trộn. Ở đấy, tuổi
thơ ông từng được theo mẹ ra chùa làng. Đấy là bảy, tám chục năm về trước. Làng
quê còn cách xa trung tâm thành phố. Chứ không phải xô bồ phố xá, hàng quán như
bây giờ. Ở đấy, quan hệ con người vẫn là làng xóm, họ mạc, phi nội tắc ngoại.
Chân tình và nhường nhịn. Không phải ăn nói láo nháo, đi lại ầm ào như bây giờ.
Hương hoa cau, hoa ngâu, hoa mộc, ở vườn chùa làng, thấm vào hồn ông từ khi ấy.
Màu áo nâu sồng của sư cụ, của vãi ám ảnh. Bao số phận, bao kiếp người, cứ bám
theo, quay quanh cái sân chùa, vườn chùa, để rồi hiện lên trang sách của ông
khi nào không hay. Tiểu thuyết Đội gạo lên chùalà trong bộ ba tiểu thuyết
lịch sử của ông. Ý tưởng về cuốn sách này, đã có từ lâu, chỉ chờ đến ngày, nó
ùa ra, tràn trên trang giấy. Ông vẫn giữ thói quen viết tay, không dùng máy
tính. Hình như khi cầm bút viết, ông dễ giãi bày nỗi niềm của ông với những con
người mà ông gần gũi, yêu thương. Cuốn tiểu thuyết, nhiều chương hay, nhưng
chương Giếng thơm, đặc biệt cuốn hút tôi. Hình tượng cô bé Rêu thật ám ảnh:
“Nó gày gò, nhỏ bé, xinh xinh. Giống hệt như mẹ, cũng da trắng môi hồng, cũng
tóc đen như mun, cũng đôi mắt đen láy long lanh... Nhìn cô bé tinh khôi, mặc
chiếc quần đen, một chiếc áo nâu non rộng thùng thình so với thân hình gày guộc
của nó, tôi cứ nghĩ mãi về cái khác biệt của Rêu... Nghĩ mãi mà chả ra. Là cái
gì nhỉ?”. Nhà văn thốt lên “Hay là... hay là nhìn Rêu ta cảm thấy sự
mong manh. Ừ, đúng là sự mong manh. Đúng chăng? Rêu đem lại cho tôi cảm nhận
sự mong manh thế gian…”. Thời nào chả vậy. Trước cái đẹp, con người luôn có cảm
giác mong manh. Gần gũi đấy, mà luôn có nguy cơ đổ vỡ, biến mất. Cái đẹp như
không có thật. “Cô gái nhà trời có cánh. Những cô gái biết bay trong không
trung, rắc hương, rắc hoa của đức Phật xuống trần thế. Cô là một thiên nữ tán
hoa”. Rêu như hiện thân của cái Đẹp trong nghệ thuật. Cái đẹp, thời nào chả hiếm
hoi.
“Cô bé gày gò, mảnh mai, nhẹ bỗng. Trông Rêu, có ngay cảm giác mong manh dễ vỡ”
Theo nhà văn, cái tạng ấy, cái tố chất ấy “thuộc về người nghệ sĩ”
“Con chim nho nhỏ
Cái đuôi nó đỏ
Cái mỏ nó vàng...”
Câu hát láy đi láy lại trên trang viết. Có ai đó, ví nghệ thuật vốn như tiếng
hót của con chim họa mi. “Nghe Rêu hát, nhất là khi cô ngân nga, run rẩy ở một
âm thanh chót vót, người ta bảo lồng ngực và cổ họng của cô giống như con chim
họa mi bé nhỏ. Người ta thích thú hoan nghênh, nhưng cứ thấy rờn rợn”. Cái đẹp
của nghệ thuật vốn đầy ma mị. Thời buổi nhiễu nhương, nghệ thuật càng mong
manh, cô đơn.
Sư cụ Vô Úy nói “Nộ khí, sát khí đang dâng cao. Nó có thể thấm vào ta. Những tụng
niệm chẳng thể làm tan bầu khí nặng nề... giúp ta có lòng kiên trì nhẫn
nhục để vượt kiếp nạn” Sư An thì bảo “Muốn đi tới chỗ đạt, chỗ ngộ, phải giữ được
tâm bình thường, dù hoàn cảnh nào cũng không loạn động”… Nghệ thuật muôn đời
không chấp nhận sự giả dối. Cái xấu, cái ác vẫn vây bủa. Sự mong manh yếu đuối
của Rêu, đã bị đổ gục trước cái xấu, cái ác lộng hành lũng đoạn. Nó còn đè nén
Rêu. Nó ở ngay trong người thân của Rêu. Con chim họa mi có giọng hót trong
sáng và mỏng manh buộc phải chết. Rêu chọn cái chết để muốn nói không đồng lõa
cái xấu, cái ác. Rêu đã trẫm mình xuống giếng thơm. Cái chết của Rêu, dễ liên
tưởng đến con chim họa mi bị mất tiếng hót, con thiên nga bị gãy cánh. “Thế
gian này làm Rêu thất vọng phải không. Rêu ơi có phải vì yêu cõi nhân gian quá
nên cô chẳng muốn sống nữa phải không” Mượn lời của Đức Phật, nhà văn như
muốn an ủi “Chẳng có gì sinh ra, chẳng có gì mất đi. Gặp duyên thì tụ thì sinh.
Hết duyên thì tán thì diệt”
*
“Tuổi già hạt lệ như sương”, câu thơ của cụ Nguyễn Khuyến khóc cụ Dương Khuê,
đã vận vào tình bạn của ông. Những cuộc chia tay bè bạn cùng thế hệ, đôi lúc
làm Nguyễn Xuân Khánh buồn sững lại. Các ông Mạc Lân, Lê Bầu, Bùi Ngọc Tấn, những
người bạn chữ nghĩa từ thời trai trẻ của ông đã đi xa. Buổi tiễn đưa nhà văn
Bùi Ngọc Tấn, ông cùng mấy người bạn chí cốt từ Hà Nội xuống từ hôm trước. Hải
Phòng, mảnh đất quen thuộc, nhiều bạn bè, nhiều kỷ niệm, vậy mà ông chả muốn đi
đâu cả. Ngồi trong đám đông chờ giây phút tiễn biệt người bạn văn chí cốt, vẻ mặt
ông hoang vắng như sa mạc. Đấy là tôi nhìn qua bức ảnh, một người bạn chụp đem
về. Còn buổi tiễn đưa nhà văn Lê Bầu, từ nhà tang lễ Bệnh viện Thanh Nhàn (Hà Nội)
di linh cữu về nhà riêng tại Thùng Đấu (Bắc Giang), suốt chặng đường hơn năm chục
cây số, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh như chả muốn nói điều gì. Nhà văn Lê Bầu, con
người xuề xòa và lầm lũi, nhưng trời phú cho nụ cười thật thoải mái. Với ông, mọi
được mất, thắng thua, công danh và vô tăm tích, xem ra chả có gì quan trọng.
Tôi từng được tiếp xúc nhiều lần với nhà văn Lê Bầu. Từ lúc phải viết từng mẩu
báo bé bằng hộp diêm để kiếm tiền sinh nhai, cho đến khi các Nhà xuất bản liên
tục đến đưa tiền ứng trước, nhờ ông dịch sách hàng nghìn trang như Ôsin, Tể
tướng Lưu gù, Thị trấn phù dung... thì ông cũng bình thản như không. Có
người bạn bảo, nhà văn Lê Bầu vốn học ở Trung Quốc, giỏi chữ Trung Hoa, nên có
căn cốt người Tầu chăng? Tôi thấy không phải thế. Có lẽ ông biết rũ bỏ mọi tai
ách, để sống cho dễ chịu. Mà tai ách nó vẫn khoác lên vai ông, bắt ông làm việc
như kéo cày cho đến phút cuối đời. Âu đó là cái nghiệp. Khi nhà văn Lê Bầu đã mồ
yên mả đẹp, trên đường trở về Hà Nội, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh mới kể cho tôi
nghe đôi chuyện riêng của nhà văn Lê Bầu. Thì ra trời không bắt ai quá trần ai.
Nhà văn Lê Bầu có những người phụ nữ thật lòng vì ông, dám cam phận, chăm chút,
tử tế với ông cho đến phút chót. Đời người, đâu dễ mấy người được hưởng thế.
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh muốn nói, sinh thời, nhà văn phải sống hẳn hoi thế
nào, thì mới được hưởng những tình cảm đầy đặn của người khác dành cho ông như
thế. Văn chương, cuối cùng là cốt cách con người. Con chữ, phơi bày cốt cách
người viết ra nó.
Nhóm bạn văn chương chữ
nghĩa cốt nhục một thuở, nay chỉ còn ba người: ông Dương Tường, ông Phạm Toàn
(Châu Diên) và ông. Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, 86 tuổi; dịch giả Dương Tường,
87 tuổi; nhà cải cách giáo dục - nhà văn Châu Diên, 87 tuổi. Điều kính phục là
sức làm việc của ba ông vượt qua tuổi tác. Cả ba ông, ngoài đóng góp trong lĩnh
vực văn học, thì sự đóng góp trong công cuộc cải cách giáo dục thật đáng trân
trọng. Cả ba ông (và cả nhà thơ Hoàng Hưng) đã có công lập ra nhóm làm sách
“Cánh buồm” với chủ trương soạn lại sách giáo khoa theo lối mới. Nhà văn Nguyễn
Xuân Khánh còn dịch rất nhiều sách triết học, tâm lý học. Tiêu biểu, cuốn Tâm
lý đám đông của Gustave Le Bon bàn về tâm lý đám đông và phân tích cái tôi
của S.Freud. Ba ông có những nét tương đồng, mê văn chương từ nhỏ, giỏi tiếng
Pháp, tiếng Anh, tuổi trẻ từng vào bộ đội, có thành tựu văn học sớm và cùng sớm
chịu lâm nạn nghề nghiệp. Họ từng qua bao khổ ải, để đến với văn chương nghệ
thuật. Họ từng phải làm những nghề vất vả nhất, đôi lúc phải làm nghề dưới đáy
xã hội để sống, để biết tự đứng dậy, chuẩn bị cho những bước đi vạm vỡ, tiến tới
cái đích của nghệ thuật mà họ theo đuổi.
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã chốt lại với bộ ba tiểu thuyết lịch sử Hồ Quý
Ly, Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa. Tiếp đến ông còn có Miền
hoang tưởng và Trư cuồng, hai cuốn tiểu thuyết thêm định vị tên tuổi
ông trên văn đàn. Có người quý trọng, đánh giá Trư cuồng là tiểu thuyết
hay nhất của ông. Mấy năm trước ông có kể với tôi, sẽ viết nốt cuốn chân dung
văn học, tập sách viết về bạn bè văn chương mà ông từng gắn bó. Sức khỏe ông gần
đây, giảm sút rõ rệt. Tuổi già sức yếu, chả biết có còn cơ hội để ông hoàn
thành cuốn sách cuối cùng này nữa không.
Một chiều chớm đông, tôi đến thăm ông. Tạm xa ngôi nhà ngõ nhỏ Trần Khát Chân,
ông về ngôi nhà người con trai trên mảnh đất Cổ Nhuế quê hương. Ông ngồi bình
thản, chấp nhận tuổi già, mắt nhìn dòng người qua lại trước cửa. Có phải con đường
này dẫn vào ngôi chùa làng, tuổi thơ ông từng theo mẹ ra chùa. Bóng dáng những
cô gái làng đội gạo lên chùa, dường như khi ẩn khi hiện...