Đón xuân Kỷ Hợi 2019, người yêu thơ không thể không nhớ,
đúng một thế kỷ trước đã sinh ra một nhân vật xuất sắc trong nền thơ Việt Nam
hiện đại: thi sĩ Huy Cận! Tập thơ “Lửa thiêng” xuất hiện khi ông ở tuổi đôi
mươi, đến hôm nay vẫn còn lấp lánh ánh sáng đam mê, mà độc giả với độ lùi thời
gian cũng không cần “lòng giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng” khi “đi giữa đường
thơm” thưởng thức.
HUY CẬN TRĂM NĂM VẪN
LẤP LÁNH LỬA THIÊNG
LÊ THIẾU NHƠN
Thi sĩ Huy Cận chào đời ngày 31-5-1919 tại xã Ân Phú, huyện
Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 10 tuổi, Huy Cận vào Huế học hành. Những bài thơ đầu
tiên in trên các tờ báo Tràng An, Sông Hương từ năm 1936, nhưng sự nghiệp của
Huy Cận thực sự xác lập với tập thơ “Lửa thiêng” in năm 1940. Dù có đôi bài
cũng khiến bạn đọc bây giờ cảm thấy ít thú vị, vẫn có thể khẳng định tập thơ “Lửa
thiêng” là thành tựu nổi bật của phong trào Thơ Mới. 50 bài trong tập thơ “Lửa
thiêng” không chỉ hé lộ một chân dung tác giả “chàng là con một người mẹ hay sầu/
nên trọn kiếp mắt chàng thường đẫm lệ” mà còn khẳng định một phẩm chất thi sĩ
“lòng lạc loài ngay từ thuở sơ sinh”.
Tập thơ “Lửa thiêng” với thao thức “ta thấy buồn cùng mọc
với trăng sao” tiêu biểu cho nỗi buồn trong thơ tiền chiến. Điều ấy, không cần
phải đếm có bao nhiêu chữ “buồn” hoặc bao nhiêu chữ “sầu”, mà dễ dàng hiểu được
qua chính niềm riêng của thi sĩ Huy Cận “hồn bơ vơ không biết tựa vào đâu/ mây
không bay, thương nhớ cũng không màu”. Để thoát khỏi tấm lưới cô đơn của cuộc sống
tù đọng bủa vây, thi sĩ Huy Cận dùng thơ như một phương tiện kết nối. Kết nối
thơ với người, bài “Buồn đêm mưa” để “tặng Khái Hưng”, bài “Học sinh” để “tặng
Tú Mỡ”, bài “Hồn xa” để “tặng Thế Lữ” hoặc bài “Giấc ngủ chiều” để “tặng Hoàng
Đạo”… Đồng thời, thi sĩ Huy Cận cũng kết nối thơ với thơ, câu thơ “Bâng khuâng
trời rộng nhớ sông dài” được làm đề từ cho bài “Tràng giang” xao xác “Nắng xuống,
chiều lên, sâu chót vót/ Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.
Thơ Huy Cận độc đáo bởi dung hòa phong vị phương Đông và
tinh thần phương Tây. Vần điệu vẫn nhịp nhàng mà ý tứ đã phóng túng, dẫu nhìn lại
“Dấu chân trên đường” lặng lẽ “Đã vậy bao lần rồi thế nhỉ/ Và sau này nữa, dấu
chân ai/ Sẽ ghi rồi xóa trên đường bạc/ Mỗi lúc trời đau gió thở dài” hay nghĩ
đến “Vạn lý tình” nôn nao “Nắng đã xế về bên xứ bạn/ Chiều mưa trên bãi, nước
sông đầy/ Trông về bốn phía không nguôi nhớ/ Dơi động hoàng hôn thấp thoáng bay”.
Chữ vẫn nằm trong khuôn thước mà nghĩa đã nhoài ra ngoài biên độ ước lệ, khi nghe
“Họa điệu” ngậm ngùi “Chiều thịnh trị: ngày xiêu nhưng nắng phới/ Cây không đi
mà tình cũng nghiêng nghiêng” hoặc khi nhìn “Áo trắng” khát khao “Em lùa gió biếc
vào trong tóc/ Thổi lại phòng anh cả núi non”. Thậm chí, trong du dương thể thức
quen thuộc lại có sự ngông ngạo bất ngờ: “Thâu qua cái ngáp dài vô hạn/ Hình ảnh
lung linh vũ trụ tàn”.
Giá trị sửng sốt của tập thơ “Lửa thiêng” không phải tình
cờ may mắn, mà thi sĩ Huy Cận có ý thức sáng tạo hẳn hoi. Trong tập văn xuôi
“Kinh cầu tự” in năm 1942, ông viết: “Thi sĩ ơi! Tôi yêu anh vì anh là người cổ
nhất. Cổ nhất mới thành mới nhất được. Trong máu anh còn sôi dòng lửa sơ khai của
vũ trụ buổi đầu. Thi sĩ ơi! Hỡi tâm hồn hỗn độn! Không có cái hỗn độn của các
anh thì tìm đâu ra cái cân đối nhịp nhàng của sự sống ngày nay?”. Nghịch lý cổ
- mới được thi sĩ Huy Cận chứng minh cụ thể trong những bài lục bát mang đậm dấu
ấn cá nhân. Với quan niệm tùy từng trường hợp “phải thay áo cho thơ, phải đổi
thể loại thì tứ thơ mới bật ra được”, thi sĩ Huy Cận đã chuyển bài “Đẹp xưa”
lúc đầu làm theo Đường luật: “Ngập ngừng mép núi đường quanh co/ Quán đứng trơ
vơ ngọn lá đưa/ Gió hút về ngàn vi vút mãi/ Dạt sườn thung lũng hàng lau thưa…”
thành lục bát nhuần nhuyễn: “Ngập ngừng mép núi quanh co/ Lưng đèo quán dựng,
mưa lò mái ngang/ Vi vu gió hút nẻo vàng/ Một trời thu rộng, mấy hàng mây
nao…”. Có lẽ, nhờ sự chuẩn bị kỹ lưỡng cả cảm xúc lẫn kỹ thuật, thi sĩ Huy Cận
có được những câu lục bát xao xuyến nhiều thế hệ, từ “Tai nương nước giọt mái
nhà/ Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn/ Nghe đi rời rạc trong hồn/ Những chân
xa vắng dặm mòn lẻ loi” đến “Ngủ đi em mộng bình thường/ Ru em sẵn tiếng thùy
dương mấy bờ” hoặc “Sắc trời trôi nhạt dưới khe/ Chim đi lá rụng cành nghe lạnh
lùng”.
Cũng như mọi thứ trên đời, thơ ca cũng phải đối diện với
sự nghiệt ngã của năm tháng. Có những câu thơ phải đặt vào chính bối cảnh ra đời,
thì mới thấy cái hay cái đẹp. Có những câu thơ chỉ vừa phủ lên một lớp bụi ký ức,
đã thấy cũ, thấy sáo. Nhiều tài danh trong giai đoạn “Thơ Mới 1932-1941” đã rơi
vào sự thật cay đắng ấy như một lẽ thường tình. Riêng thi sĩ Huy Cận, nhiều câu
thơ trong tập thơ “Lửa thiêng” vẫn còn nguyên vẹn sức thuyết phục với công
chúng thế kỷ 21 như “Nhà em đầu phố lặng/ Ba ngõ, bốn bề trời” hoặc “Phố đìu
hiu màu đá cũ lên sương/ Sương hay chính bụi phai tàn lả tả”. Thử hỏi, hai câu
thơ đậm đà phong cách Huy Cận, kiểu “Lòng êm như chiếc thuyền trên bến/ Nghe
gió thu về hạ bớt mui” thì khác gì một sản phẩm Đường thi đang thách thức thẩm
mỹ hôm nay?
Thi sĩ Huy Cận không chỉ là một người làm thơ với những
run rẩy “tôi đã đành mang nặng nghiệp yêu thương” mà ông còn là một trí thức tầm
cỡ. Năm 26 tuổi, thi sĩ Huy Cận đã trở thành Bộ trưởng Bộ Canh nông đầu tiên của
nước Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên ông có được vị trí xã hội như vậy. Ý thức
cách mạng của thi sĩ Huy Cận được hun đúc một cách bền bỉ. Ngay ở bài “Quanh quẩn”
trong tập thơ “Lửa thiêng”, ông đã nhận diện sự bế tắc xung quanh “Đời nghèo thế!
Không dành tôi chút lạ/ Đến ái ân cũng hết cả đợi chờ/ Và mỗi ngày sau những giấc
ngủ trưa/ Mùng buông xuống không che sầu vũ trụ”. Đến bài “Xuân hành” viết năm
1943, ông tiếp tục khắc khoải “Về đâu những bước thời gian đã/ In dấu mong manh
trên cánh đào/ Về đâu hạt bụi vàng thao thức/ Theo bánh xe quay tròn khát khao”.
Và ông bày tỏ sự đổi thay lịch sử trong bài “Giữa lòng thế kỷ” viết năm 1946: “Nghe
xương sống ca bài ca hùng vĩ/ Của ngàn muôn thế hệ ngẩng lên dần”.
Giữ nhiều trọng trách sau năm 1945, nên thi sĩ Huy Cận tạm
ngưng sáng tác hơn chục năm. Tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” in năm 1958, đánh
dấu sự trở lại của thi sĩ Huy Cận. Trong không khí văn chương phục vụ công nông
binh, “chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm” có bài thơ “Anh Tài Lạc” dài gần 80
câu, với chú thích: “Anh tài Lạc, công nhân ở mỏ Cẩm Phả, đoàn viên công đoàn,
tổ trưởng một tổ phá hoại hồi đầu kháng chiến ở mỏ bị địch bắt và bắn tại thị
xã Cẩm Phả ba giờ sau khi chúng bắt anh”. Tuy nhiên, chất thơ mơ mộng của thi
sĩ Huy Cận vẫn được lồng ghép khéo léo vào đời sống lao động hồ hởi. Cũng một
chủ đề biển, nhưng thi sĩ Huy Cận có cách nhìn và cách viết uyển chuyển theo từng
cột mốc sáng tạo. Bài “Đoàn thuyền đánh cá” trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại
sáng” vượt qua sự miêu tả đơn giản “Ta hát bài ca gọi cá vào/ Gõ thuyền đã có
nhịp trăng cao/ Biển cho ta cá như lòng mẹ/ Nuôi lớn đời ta tự thuở nào”, thì
bài “Mưa xuân trên biển” trong tập thơ “Đất nở hoa” in năm 1960 xây dựng bằng
chất liệu mới: “Em bé thuyền ai ra giỡn nước/ Mưa xuân tươi tốt cả cây buồm/ Biển
bằng không có dòng xuôi ngược/ Cơm giữa ngày mưa gạo trắng thơm”, và đến bài
“Ta viết bài thơ gọi biển về” trong tập thơ “Hạt lại gieo” in năm 1984 đã nâng
lên sự khái quát “Rồi một ngày kia hết ở đời/ Cho ta theo biển khỏa chân trời/ Điều
chi chưa nói xin trao sóng/ Lấp lánh hồn ta mặn gió khơi”.
Một đặc điểm không thể phủ nhận ở thơ Huy Cận là chất trí
tuệ. Sự quan sát bằng đôi mắt thi sĩ cộng với sự rung động bằng trái tim thi
sĩ, đều được lắng lại bằng suy tưởng thi sĩ. Nhờ vậy, thơ Huy Cận tránh được sự
dễ dãi khi thi ca phải gánh vác thêm sứ mệnh cụ thể cho bộn bề công cuộc chiến
đấu và kiến thiết non sông. Nếu bài “Các vị La Hán chùa Tây Phương” trong tập
thơ “Bài thơ cuộc đời” in năm 1963 biết đắn đo: “Cha ông yêu mến thời xưa cũ/ Trần
trụi đau thương bỗng hóa gần/ Những bước mất đi trong thớ gỗ/ Về đây tươi vạn dặm
đường xuân” thì bài “Gà gáy trên cánh đồng Ba Vì được mùa” trong tập thơ “Chiến
trường gần đến chiến trường xa” in năm 1973 biết nhấn nhá: “Núi Tản như con gà
cổ đại/ Khổng lồ, mào đỏ thắp bình minh/ Mênh mông gọi nắng cho mùa chín/ Từ buổi
Sơn Tinh thắng Thủy Tinh”.
Thi sĩ Huy Cận làm thơ từ tuổi trẻ đến tuổi già. Đọc những
bài thơ được thi sĩ Huy Cận viết sau tuổi 65, không thể không khâm phục khả
năng biến hóa những thi ảnh thật sinh động. Cùng phản ánh một đối tượng, bài
“Chim làm ra gió” viết ngày 5-2-1984 thuyết phục với mấy câu lãng đãng “Ta ở đất
này, sống cõi này/ Đất làm ra gió để chim bay/ Chim làm ra gió cho trời rộng/ Người
thuộc đường chim dang cánh tay”, còn bài “Con chim bay” viết ngày 7-8-1985 lại
thuyết phục với mấy câu đắm đuối “Con chim bay không thấy bóng mình bay/ Chỉ thấy
những chân trời phải tới/ Dang cánh rộng đập không gian vời vợi/ Bóng ở đất bằng,
cánh lướt trời mây”.
Thi sĩ Huy Cận từ trần ngày 19-2-2005, hưởng thọ 86 tuổi.
Thi sĩ Huy Cận trọn kiếp đau đáu với thơ, mong dùng thơ san sẻ với nhân gian. Trong
một tiểu luận được viết những năm cuối đời, thi sĩ Huy Cận bộc bạch: “Nhà thơ
làm thơ về đau khổ trong một trạng thái tâm hồn hào hứng, trong một trạng thái
trái đang chín cây. Người đọc thơ được di dưỡng tinh thần với trạng thái ấy, mặc
dù người làm thơ có thể mang nỗi đau trong đáy tâm hồn mình”. Rõ ràng, tiêu chí
ấy hoàn toàn trung thành với những câu thơ gan ruột “Cũng chẳng dò xem gió ngược
xuôi/ Lời đi không cốt gặp tai người/ Quá buồn nên muốn yên nguôi chút/ Tôi nói
lòng ra để tự cười” trong tập thơ “Lửa thiêng” khởi nghiệp của ông./.