"Người xưa
cảnh tỉnh" là một quyển sách thuộc vào nhóm sách 'học làm người' thời nay.
Nhưng học để tránh thói xấu (chứ không học cái hay). Hai soạn giả Vương Trí
Nhàn và Trần Văn Chánh mượn những lời nhận xét của người xưa về những thói hư tật
xấu để cảnh tỉnh người Việt ngày nay. Đó là một cuốn sách không hẳn dễ đọc,
nhưng khi đã đọc thì khó buông được, bởi vì hình như người đọc có thể tìm thấy
hình bóng mình hay những người chung quanh trong từng câu chữ trong sách.
ĐỌC SÁCH “NGƯỜI
XƯA CẢNH TỈNH”
NGUYỄN VĂN TUẤN
Những sách cảnh
tỉnh, vạch ra những thói hư tật xấu của một dân tộc không phải là mới, nhưng mới
với Việt Nam. Người Mĩ đã có "The Ugly American". Người Úc có "The
Ugly Australian". Người Nhật cũng có một cuốn sách tương tự (do một đại sứ
Nhật viết). Gần chúng ta hơn, người Hoa cũng đã có một cuốn sách như thế. Thật
vậy, đúng 20 năm trước, tác giả Bá Dương (Bo Yang) đã làm cho cả thế giới và cộng
đồng người Hoa xôn xao khi ông cho xuất bản cuốn sách 'Người Hoa Xấu Xí' (Xú Lậu
Đích Trung Hoa Nhân). Trong sách, Bá Dương (người Hoa sống ở Đài Loan) liệt kê
và phê phán không khoan nhượng những nét văn hóa, những thói quen, những hủ tục
'xấu xa' của người Hoa. Ông không có một chữ nào để viết về những nét văn hóa
'đẹp' của Trung Hoa. Cuốn sách được bán rất chạy, và trở thành đề tài bàn luận
của hầu hết các tầng lớp xã hội, từ giới bình dân đến trí thức. Cuốn sách được
dịch sang tiếng Anh dưới tựa đề 'The Ugly Chinaman and the Crisis of Chinese
Culture' (và đã tái bản 3 lần), được xem là 'cẩm nang' của người phương Tây để
hiểu biết hơn người Hoa.
Nhưng người Việt
thì chưa có một cuốn sách hoàn chỉnh như những cuốn 'ugly' đề cập trên đây; có
lẽ cuốn 'Người xưa cảnh tỉnh' là gần nhứt. Tuy chưa có, nhưng các học giả Việt
Nam trong quá khứ đã nhiều lần nói lên những tính xấu của người Việt. Họ viết
ra những điều đó trong nhiều dịp và bối cảnh khác nhau, có khi rất cá nhân,
nhưng nói chung là rất rải rác và rời rạc. Chúng ta chưa có một tổng luận có hệ
thống về thói xấu của người Việt.
Sách là một loại
'anthology' hay tập hợp những đoạn văn của các học giả Việt viết về tính cách
và thói quen của người Việt. Đó là những học giả sống vào thế kỉ 19 và đầu thế
kỉ 20 như Nguyễn Trường Tộ, Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh, Trần Trọng Kim, Phan Khôi, Nguyễn Văn Huyên, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô
Tất Tố, Ngô ĐứcKế, Đào Duy Anh, Hoàng Đạo, Hoàng Cao Khải, Nguyễn Trọng Thuật,
Phạm Quỳnh, Dương Bá Trạc, v.v. Họ viết ra những nhận xét đó trong các bài báo
và khảo luận văn hóa. Thời gian họ viết ra trong những năm cuối thế kỉ 19 và đầu
thế kỉ 20, khi nền báo chí học thuật Việt Nam bắt đầu khởi sắc. Những nhận xét
đó được viết bằng thể văn có khi là học thuật, có khi là ngôn ngữ thô, nhưng
nhiều khi là châm chọc.
Sách gồm 2 phần:
phần đầu là sưu tập những câu nói của các học giả, và phần hai là tổng luận. Phần
I được sưu tập bởi tác giả Vương Trí Nhàn (Hà Nội). Phần II được viết bởi tác
giả Trần Văn Chánh (Sài Gòn). Phần đầu, Vương Trí Nhàn có công sưu tập đến 260
câu nói của các học giả. Ông sắp xếp các phát biểu đó dưới 13 tiểu mục: ăn ở,
cư trú và mối liên hệ với thiên nhiên; tệ nạn xã hội; dân trí và ý thức xã hội;
giáo dục; giao lưu tiếp xúc; tìm tòi học hỏi và tiếp nhận người nước ngoài; làm
ăn buôn bán; nói năng, suy nghĩ, lễ nghi, phong tục; quan hệ giữa người với người;
tổ chức quản lí làng xã; tổng quát về người Việt; trí thức quan lại; và văn hóa
nghệ thuật và học thuật. Phần tóm tắt có thể xem dưới đây (*). Như có thể thấy,
đó là một danh sách dài những thói hư tật xấu của người Việt.
Có thể xem cấu
trúc quyển sách như là một tiểu luận mang tính học thuật định tính. Phần đầu là
những dữ liệu (hay nói 'chứng cứ' cũng được), và phần hai là diễn giải những dữ
liệu đó và đặt chúng vào bối cảnh hiện tại. Do đó, đọc phần đầu thì có thể hơi
nhàm vì dữ liệu (260 câu trích dẫn), nhưng đọc phần hai thì thấy thú vị hơn vì
người đọc sẽ hiểu những dữ liệu đó có ý nghĩa gì, và biết được những cách nhìn
của tác giả. Bài tổng luận (tác giả gọi là 'tổng thuật') bắt đầu bằng một trường
hợp liên quan đến một tiếp viên của Vietnam Airlines bị tạm giam ở Nhật vì nghi
ngờ xách lậu hàng ăn trộm về Việt Nam, và tác giả Trần Văn Chánh bàn về những
thói quen không mấy hay ho của người Việt. Tác giả trích lại nhận xét của học
giả Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược về người Việt: 'Tâm địa thì nông nổi,
hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang và ưa trương hoàng bề ngoài, hiếu
danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma quỷ, sùng sự lễ bái, nhưng mà
vẫn không nhiệt tin tông giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác.' Tác giả cho
rằng nhận xét đó khá đúng với tâm tánh của người Việt (dĩ nhiên là nói chung),
dù nhiều người không muốn nhìn nhận điều đó. Tác giả Vương Trí Nhàn đi đến nhận
xét rằng 'Thói xấu lớn nhất của người Việt là rất sợ nói về thói xấu của mình.'
Cũng như sách của
Bá Dương, quyển 'Người xưa cảnh tỉnh' không có một lời nói nào tốt về người Việt,
đơn giản vì đó không phải là mục tiêu của sách. Mục tiêu là mượn lời nói của
người xưa để cảnh tỉnh người Việt thời nay. Người Việt thời nay, bên cạnh những
nét văn hóa hay, còn có rất rất nhiều thói quen và quán tính chỉ có thể mô tả bằng
một cụm từ: khó hòa nhập với thế giới văn minh.
Đó là những thói
quen và quán tính mà tác giả Vương Trí Nhàn và Trần Văn Chánh đề cập đến trong
sách. Sách còn có những trích dẫn mà nếu đối chiếu lại ngày nay cũng khá thời sự
tính, như nền giáo dục giết chết nhân cách (Đào Duy Anh) và nền giáo dục bị
thương mại hóa (Thái Phỉ). Những thói như loanh quanh chỉ những ăn uống (nhận
xét của Phan Kế Bính), mê muội hưởng lạc (Nguyễn Trường Tộ), mê tín gây lãng
phí, ăn uống chơi bời bên cạnh nỗi đau của người khác (Phan Kế Bính), thạo sử
người hơn sử mình (Hoàng Cao Khải), học đòi làm dáng sống sượng (Nguyễn Văn
Vĩnh), chỉ biết học cái bề ngoài (Phạm Quỳnh), hiếu danh đến mất tự trọng (Phạm
Quỳnh), chỉ trích và châm chọc (Lương Đức Thiệp), hay nghi ngờ và hại nhau
trong công việc (Phan Bội Châu), khinh miệt cá nhân (Hoài Thanh), mưu danh bằng
cách hạ nhục kẻ khác (Hoa Bằng), v.v. tất cả đều dễ dàng nhận ra trong xã hội
ngày nay.
Một câu hỏi đặt
ra là những thói xấu vừa đề cập có phải là 'văn hóa'. Nếu lí giải rằng cái nền
văn hóa Việt Nam là nguyên nhân của những thói hư tật xấu đó có vẻ đơn giản hóa
vấn đề, bởi vì người Việt ở nước ngoài có vẻ có ít thói xấu như thế so với người
trong nước, và ngay cả ở trong nước cũng có sự khác biệt lớn về lề thói ứng xử
giữa người miền Bắc và miền Nam trước 1975, hay sau và trước 1975. Tức là có một
yếu tố khác, hơn là văn hóa, có thể giải thích tại sao những cái mà tác giả gọi
là 'thói hư tật xấu' của người Việt. Tôi nghĩ rằng đó là thể chế chính trị - xã
hội. Khi nói 'thể chế', tôi muốn nói đến cái tiếng Anh gọi là 'institution', chứ
không hẳn là chế độ chính trị. Nhưng dĩ nhiên, có người sẽ nói chế độ đẻ ra thể
chế văn hóa, nên người ta cũng có lí do qui về chế độ.
Có nhiều nghiên
cứu cho thấy người Á châu, kể cả người Việt, ít tin tưởng vào người lạ hơn là
người Âu châu. Có lẽ vì văn hóa Á Đông phân biệt tương đối rạch ròi giữa Trong
Nhóm và Ngoài Nhóm. Người Trong Nhóm dễ tin hơn người Ngoài Nhóm. Và, có người
chỉ ra rằng các tập đoàn kinh tế người Hoa thường do người trong gia đình nắm
quyền điều hành, còn các tập đoàn kinh tế Âu Mĩ thì ít có 'thể chế gia đình trị'
đó, và do đó có thể giải thích tại sao nhiều tập đoàn kinh tế Á châu khó vươn
ra 'biển lớn'. Riêng trường hợp Việt Nam, mới có một cuộc điều tra xã hội cho
thấy có khoảng 23% là người ta tin tưởng lẫn nhau, và có đến 80% người trả lời
sẵn sàng lợi dụng người khác để hưởng lợi cho mình, nói lên một xã hội bị sứt mẻ
niềm tin nghiêm trọng. Với một xã hội như thế thì chúng ta khó kì vọng gì lành
mạnh và tươi sáng cho tương lai, cũng giống như bên Tàu, dù kinh tế có phát triển
đây đó nhưng thế giới vẫn xem người Hoa là một loại hạng hai.
'Người xưa cảnh
tỉnh' có thể làm cho nhiều người cau có, thậm chí giận dữ, bởi vì tác giả chỉ
nêu lên những thói xấu của người Việt. Nhưng nếu có những nhận xét giận dữ và
phản ứng hằn học với quyển sách thì điều đó chỉ thêm minh chứng về tính xấu của
người Việt mà thôi. Tuy quyển sách chưa phải là một quyển 'Người Việt Xấu Xí'
(chứ chưa chắc 'xấu xa') như cuốn của Bá Dương, vì tác giả chỉ 'mượn' người
xưa, chứ chưa trực diện tấn công như Bá Dương. Tuy nhiên, những lời của người
xưa và lí giải trong sách cũng đáng để chúng ta tham khảo.
Nhưng mục tiêu của
tác giả là cảnh tỉnh người thời nay. Cảnh tỉnh để tự sửa mình. Khi được hỏi người
Việt nên bắt đầu từ đâu để tự sửa mình, tác giả nghĩ đến giáo dục và luật pháp.
Tôi nghĩ đó có lẽ cũng là câu trả lời nhiều người nghĩ đến, nhưng chưa đủ. Giáo
dục và luật pháp chịu sự chi phối nặng nề của thể chế chính trị, cho nên tôi
nghĩ cái gốc và cũng là nơi khởi đầu chỉnh sửa chính là thể chế. Ngoài thể chế,
tôi nghĩ vai trò của tôn giáo độc lập cũng vô cùng quan trọng. Có rất nhiều
nghiên cứu tâm lí xã hội ở phương Tây cho thấy mối liên hệ dương tính giữa đạo
đức xã hội, đạo đức cá nhân và mức độ hoạt động độc lập của tôn giáo. Do đó, cảnh
tỉnh là ở cấp độ cá nhân, dù rất quan trọng, nhưng vẫn cần phải có sự tác động
của 'hệ thống' thể chế và tôn giáo.
'Người xưa cảnh
tỉnh' cũng có thể ví như là một tấm gương. Tấm gương đó có tác dụng phản chiếu
để mỗi chúng ta nhìn thấy những tì vết tâm lí của chính mình mỗi ngày. Tôi nghĩ
cuốn sách xứng đáng có mặt trong tủ sách của mỗi gia đình người Việt. Tác giả
Bá Dương đã qua đời năm 2008, và trước ngày qua đời ông nhận định rằng cuốn
sách 'Người Trung Hoa Xấu Xí' của ông đã giúp cho người Hoa tốt hơn. Chúng ta
cũng hi vọng rằng quyền 'Người xưa cảnh tỉnh' của hai tác giả Vương Trí Nhàn và
Trần Văn Chánh cũng có tác động tích cực như thế cho người Việt trong tương lai.
====
Sách "Người xưa cảnh tỉnh: thói hư tật xấu
của người Việt trong con mắt các nhà trí thức nửa đầu thế kỉ 20" của hai
tác giả Vương Trí Nhàn (sưu tầm) và Trần Văn Chánh (luận giải), do Nxb Tổng Hợp
ấn hành năm 2018. Sách dày 284 trang, khổ nhỏ, giá bán 90,000 đồng.
(*)Tóm tắt trong
sách về những thói hư tật xấu của người Việt:
"1. Người
Việt và ý thức công dân ý thức xã hội (Phần 1):
Bảo thủ, dựa dẫm,
cầu an; Tri túc và hiếu cổ; Cái gì cũng đổ tại trời; Ma quỷ sống lẫn với người
hèn yếu; Ý thức quốc gia thức tỉnh quá chậm; Khi bàn chuyện quốc gia chỉ ham hư
danh; Làm ra vẻ yêu nước để mưu lợi riêng; Lo việc nước theo lối tự tư tự lợi; Tư
tưởng gia nô; Kém óc hợp quần; Một vài thói tục đã thành di truyền (một là học
để làm quan, hai là làm quan ăn lót, ba là a dua người quyền quý, bốn là trọng
xác thịt…); Sợ tự do, cam chịu làm nô lệ; Chưa trưởng thành trên phương diện
công dân; Các hội nghề nghiệp yếu ớt ọp ẹp; Sinh hoạt hội đoàn dễ bị làm hỏng;
Theo sự chi phối của quan niệm hư vô.
2. Người Việt và
ý thức công dân ý thức xã hội (Phần 2):
Có độc lập cũng
cướp đoạt của cải và chém giết nhau đến chết; Dân trí thấp kém... (hay nghi kỵ
lẫn nhau, không làm nên việc gì cả…); Tôn sùng những điều xa hoa vô ích, bỏ bễ
những sự nghiệp đáng làm; Chỉ biết lợi mình mà không biết hợp quần; Thương tiếc
của riêng, không tưởng đến việc ích chung; Biết có thân mình nhà mình mà không
biết có nước; Dễ ỷ lại; Trong việc nước cũng ai mạnh thì theo, bỏ hết liêm sỉ;
Rên rỉ than vãn mỗi khi gặp khó; Không có chí viễn du; Xa lạ với chuyện phiêu
lưu; Căn tính nô lệ, run sợ trước cái mới; Không thiết việc đời; Chống đối tự
phát (như nhà nước đòi sơn thì dân chặt cây đi, nhà nước đòi vải lụa thì dân
phá khung dệt, đòi gỗ thì dân quăng búa rìu, đòi tôm cá thì dân xé lưới…); Đi
đâu cũng lo quay về làng; Ngoài làng xã không biết gì đến nước nhà đến thế giới;
Tình yêu làng nước cản trở tiến bộ; Ương ngạnh, hoài nghi, khó dìu dắt.
3. Người Việt
qua cách nói năng cười cợt
Không còn lễ
nghĩa liêm sỉ; Những câu chửi rủa quá quắt; Tây không ra Tây, Tàu không ra Tàu,
ta không ra ta; Thiên về những cái tầm thường thô bỉ; Tật huyền hồ sáo hủ (chỉ
sự ăn nói lời nói linh tinh, trống rỗng, giả tạo…); Gì cũng cười (trong tiếng
cười ẩn chứa nhiều ý xấu…); Tiếng cười vô duyên; Nói bừa nói bãi, tủi nhục cho
cả nòi giống; Hay cãi nhau, thích kiện tụng; Chỉ trích và châm chọc.
4. Thói hư tật xấu
người Việt trong làm ăn buôn bán
Thiếu cái gan
làm giàu; Không lo xa, dễ thỏa mãn; Ăn xổi ở thì, chưa lo làm đã lo phá; Không
biết chấn hưng thực nghiệp; Đồng tiền không dùng để sinh lợi; Những người thợ bất
đắc dĩ; Buôn bán lòng vòng trong phạm vi hẹp; Không có nghề nào đạt tới trình độ
chuyên nghiệp; Không chịu học buôn học bán; Khéo tay mà trí không khôn; Không
ai chuyên nhất việc gì; Làm hàng bán hàng đều kém; Tài trí thua kém; Thời gian
phí phạm cách sống làm điệu làm dáng; Quan niệm về kinh tế quá cổ lỗ; Giữa chủ
và thợ không tìm được hình thức cộng tác thích hợp; Những cái gia truyền dần dần
mất đi; Ngủ yên trên danh vọng; Bôi bác, giả dối, chỉ cầu rẻ; Người làm nghề
không ngóc đầu lên được; Không biết thích ứng với xã hội hiện đại.
5. Việc tìm tòi
học hỏi và nền giáo dục của người
Nhắm mắt bắt chước
điều không hay của cổ nhân và ngại thay đổi; Dễ học cái dở; Học thuật hủ bại; Học
để kiếm gạo; Học để làm quan; Học đòi vặt vãnh bỏ qua chuyện lớn; Nặng tính hiếu
kỳ; Thần trí bạc nhược, thiếu óc tự lập; Như cái cây bị “cớm”; Con ma cử nghiệp
giết chết sự học; Có khoa cử mà không có sự 22 nghiệp; Giáo dục hiện đại bị
thương mại hóa; Thiếu niên hư hỏng; Đỗ đạt là xong, không còn cầu học; Một nền
giáo dục giết chết nhân cách; Không có một nhà tư tưởng, không có người khao
khát tìm đạo lý mới.
6. Việc tìm tòi
học hỏi và nền giáo dục của người Việt
Khi học thuật
kém cỏi lòng người sinh ra phù phiếm, phong tục trở nên bại hoại; Nói láo nói
linh; Không học nên thiếu tư cách làm người; Cái hay của người đến mình trở
thành cái dở; Học không biết cách, luật pháp hồ đồ, cương thường giả dối; Không
học được cách tư duy hợp lý; Không có học thuyết của mình (xưa nay ta chỉ có mấy
lối học của Tàu truyền sang…); Việc bắt chước dễ dãi thường gây nhiễu loạn; Mô
phỏng lâu ngày quên cả sáng tạo; Mình lại rẻ mình, bản thân tự làm hỏng; Tình
nghĩa thầy trò bị hiểu sai lệch và bị lợi dụng; Chỉ lo nuôi không lo dạy; Sẽ có
lúc mất hết đạo lý? (song song với vấn đề nghèo khổ, còn phải giải quyết vấn đề
giáo dục…); Không chú trọng học thuật sẽ thành dân tộc bỏ đi.
7. Thị hiếu nhỏ
mọn và chất bi thương sầu cảm trong văn chương
Thị hiếu tầm thường;
Văn chương phù phiếm, toàn giọng bi thương; Đằng sau thói quen đẽo gọt là sự
nhu nhược; Chỉ giỏi về văn thù ứng; Tưởng thật mà hóa dối; Khinh miệt cá nhân;
Không tìm thấy bản sắc; Phê bình nghĩa là nịnh nọt; Nhắm mắt bắt chước cốt kiếm
lợi; “Tiểu thuyết của phường coi cổng” (những cuốn tiểu thuyết hay nhất của ta
bây giờ, già lắm chỉ bằng những cuốn tiểu thuyết của phường coi cổng bên Pháp
mà thôi!...); Nhiều trò quảng cáo bỉ ổi; Những nhạc điệu rời rạc, ẻo lả; Nặng
tính trang sức mà thiếu sức sống (nghệ thuật Việt Nam thường bị bó buộc trong lề
lối cổ...); Kiếp người bấp bênh văn chương sầu não.
8. Quan hệ giữa
người với người: tham lam ích kỷ cạnh tranh nhỏ nhặt
Không ai hết
lòng với ai; Tham lợi dẫn đến vô cảm; Không biết hợp quần; Ích kỷ và khôn vặt;
Chỉ biết cạnh tranh trong những việc tầm thường, lặt vặt; Vừa không thiết chuyện
gì, vừa xét nét nhỏ nhặt; Lợi dụng đạo nghĩa kiếm lợi; Danh dự bị hiểu sai lạc
và mang ra mua bán; Trông nhau để … yên tâm trục lợi; Cách sống của kẻ cùng đường;
Mưu danh bằng cách hạ nhục kẻ khác; Chỉ biết lo thân.
9. Bẻ quẹo những
chuẩn mực đạo lý nhân bản
Lêu lổng qua
ngày, mất hết tự trọng; Trông đợi quá nhiều ở sự may rủi; Thiếu tận tâm, tránh
khó tìm dễ; Xấu làm tốt dốt làm thông; Không biết tôn trọng cả lợi ích công cộng
lẫn lợi ích cá nhân; Những ham muốn tầm thường; Giả dối thịnh hành, không biết
nhìn ra sự thật; Giải thích sai các giá trị (hỏi trọng gì, ắt là võng lọng cân
đai; hỏi quý ai, tất là ông cả bà lớn; hỏi cái gì là sang, tất là xe ngựa lâu
đài ngọc ngà gấm vóc…); Đạo lý ngược đời; Trung dung theo nghĩa nửa vời, trung
dung cốt để ngu dân (“Trung dung thật là một cái thuyết lôi thôi, mà xã hội ta
chịu lấy cái ảnh hưởng trung dung ấy mà hóa ra một cái xã hội ương ương dở dở,
trắng không ra trắng đen không ra đen…”); An nhẫn lẫn với đê hèn nhục nhã; Lười
biếng và hay nói hão…
10. Giả dối, lừa
lọc, kiêu ngạo, hiếu danh
Không biết giữ
chữ tín; Hiếu danh đến mất tự trọng; Bệnh giả dối quá nặng; Sợ mang tiếng chứ
không phải sợ cái xấu; Chỉ giỏi diễn trò trước mặt mọi người; Kiêu ngạo, hợm
hĩnh, 23 theo đuổi những cái hão huyền; Khiêm nhường giả, kiêu căng thật; Hay tự
ái và thích chơi trội; Tinh thần voi nan (những con voi to lớn lắm, có đủ chân
đủ vòi, nhưng nó ở trong bằng nan ở ngoài bằng giấy…); Học đòi, làm dáng.
11. Nếp tư duy
đơn sơ tùy tiện
Kém óc khoa học;
Óc tồn cổ; Quá vụ thực trong tư duy; Điều hòa với nghĩa… chắp vá bừa bãi; Áp đặt
chuyên chế mọi nơi mọi chỗ; Gọt chân cho vừa giày; Chỉ suy nghĩ bằng khuôn sáo;
Không chịu được những tìm tòi phá cách; Bỏ cũ theo mới một cách nông nổi; Thói
quen cam chịu; Dễ dãi thô thiển thế nào cũng xong; Tùy tiện thay đổi, chỉ cốt
có lợi."
Nguồn: Blog Nguyễn Văn Tuấn