Viết về tình trạng của những con đường bảo đảm giao
thông đi lại ở nước VN cổ, một nhà nghiên cứu nước ngoài đã dùng đến hai chữ ấu
trùng. Tôi nghĩ rằng cũng có thể dùng hai chữ ấy để mô tả tình trạng của
sách vở ở ta từ xưa tới nay. Gần như dân ta chưa biết làm sách, lại càng không
tạo ra được một không gian có ý nghĩa tinh thần cho sách tồn tại và phát triển.
Sự nghèo nàn của văn hóa sách Việt Nam là một căn bệnh kéo dài kinh niên trong
lịch sử.
SỰ NGHÈO NÀN VỀ VĂN HÓA SÁCH Ở TA
VƯƠNG TRÍ NHÀN
Văn hóa Việt Nam thường được miêu tả qua các phương
diện như tín ngưỡng tôn giáo lễ tiết, thi cử, các ngành nghệ thuật, rồi phong tục
tập quán, các nghề thủ công, nhà ở, đồ ăn thức uống.
Giở những cuốn lịch sử văn hóa
quen thuộc từ Việt Nam văn hoá sử cương (1938) của Đào Duy Anh,
qua Văn minh Việt Nam (1943) của Nguyễn Văn Huyên, Hiểu biết về
Việt Nam(1954) của P.Huard và M.Durand, không đâu người ta thấy nói tới nghề
làm sách và vai trò của sách trong xã hội.
Bắt đầu từ quan niệm Đọc lướt
qua các bộ Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục, thấy những
chữ lên ngôi, thiết triều, hạ chiếu, chinh phạt, khởi loạn, rồi ban thưởng,
xướng họa,... đầy rẫy và lặp đi lặp lại dày đặc bao nhiêu thì chữ sách, đọc
sách, soạn sách, dịch sách hiếm hoi bấy nhiêu. Chưa một triều đại nào
trong quá khứ có thời giờ nghĩ nhiều đến sách và coi sách là việc lớn của vương
triều mình.
Phải công nhận trong khi ghi chép và phân loại thành tựu
văn hóa trong quá khứ, Lịch triều hiến chương loại chí Phan Huy Chú đi
xa hơn cả. Tác giả đã dành cả một chương mang tên văn tịch chí ghi lại sách vở
các đời.
Thế nhưng đó vẫn không phải là lịch sử sách, càng không phải
là sự trình bày quan niệm về sách, vai trò của sách vở trong đời sống của người
Việt. Mà lý do chính là vì trong xã hội bấy giờ, những ý niệm này chưa xuất hiện,
tác giả có muốn cũng không làm được.
Trong khi đó chỉ cần đọc lướt qua những cuốn lịch sử những
nước có nền văn hóa phát triển người ta thấy ở xứ người, sách đã được quan niệm
đầy đủ ra sao và được dành cho một vị trí như thế nào. Sự ra đời của những
cuốn sách lớn được ghi nhận như những cái mốc lớn lao đánh dấu thành tựu của cộng
đồng trong việc chinh phục thiên nhiên và tự nhận thức về mình, làm chủ cuộc sống
của mình.
2.
Đi vào cụ thể một số mặt trong văn hóa sách.
Về kiểu loại sách: Nếu trên phương diện kinh tế,
hàng hóa chúng ta sản xuất ra đã quá nghèo nàn về mẫu mã và chủng loại
thì ở sách cũng có tình trạng tương tự. Sách được hiểu chủ yếu là các tập thơ tập
văn. Trong khi đó, cả ở phương Tây lẫn phương Đông, xuất bản phẩm có nghĩa
rộng hơn nhiều, sách thường tổ chức theo một hệ thống thể loại chặt chẽ, bao gồm
đủ loại từ các biên khảo, các sách biên niên sử, rồi từ điển và bách khoa thư.
Việc làm một cuốn sách một bộ sách có khi được người ta dành cho cả một đời người.
Về nội dung sách: Trong
cuốn Bản sắc văn hóa Việt Nam,nhà nghiên cứu Phan Ngọc, khi tìm hiểu thư mục
di sản văn hóa Hán Nôm Việt Nam đã chỉ rõ trong số 6000 quyển sách tạm gọi là
tiêu biểu cho tâm thức của trí thức Việt Nam trước khi tiếp xúc với văn hóa
Pháp, có quá nửa là sách học để đi thi, các bài mẫu, các sách giảng về các kinh
truyện, các bài thơ phú viết theo lối văn chương hàn lâm mà lại bị làm cho tầm
thường đi. Tức theo Phan Ngọc, đây chỉ là một nền xuất bản phục vụ cho việc học
để làm quan! Trong số 70 quyển thuộc loại nông nghiệp có 9 quyển nói về địa bạ,
4 quyển về cách kê khai ruộng đất, 5 quyển về đê điều, 18 quyển về việc đóng
thuế, còn lại là nói về các thổ sản. Trong sách về thủ công nghiệp chỉ thấy nói
về tiểu sử các ông thành hoàng các nghề...
Bảo quản giữ gìn sách: Sau
khi được sao chép ra với số lượng ít ỏi, sách chỉ có cuộc sống ngắn ngủi. Ta
hay đổ cho nước ngoài - rõ nhất là thời kỳ quan quân nhà Minh sang đô hộ - tịch
thu và tiêu hủy nhiều sách của ta. Song theo Phan Huy Chú, trước đó sách từng
là nạn nhân của những cuộc khởi nghĩa, khi Thăng Long bị cướp phá, sách vở đã bị
đốt rất nhiều. Về sau này, trong các thế kỷ XVII- XVIII, cho tới XIX , tình
hình cũng chẳng khá hơn đến mức hai nhà nghiên cứu người Pháp là L.
Cadiere và P.Pelliot đã khái quát “ không ở đâu mà cái gia tài kiến thức của một
dân tộc lại tan biến nhanh như vậy”( dẫn theo Tạ Chí Đại Trường, lời
mở đầu của sách Lịch sử nội chiến ở VN từ 1771 đến 1802 – SG
1973)
Giao
lưu với nước ngoài: Một phương diện nữa đánh dấu sự
phát triển của văn hóa sách một quốc gia là khả năng quốc gia đó trao đổi sách
vở cùng các tài liệu in ấn nói chung với quốc gia khác, tức là vấn đề xuất
nhập khẩu sách (từ đây mở đường cho những cuốn sách lớn trở thành tài sản chung
của nhân loại).
Trong một tài liệu viết về thư tịch chữ Hán ở Nhật Bản (in
trên tạp chí Nghiên cứu văn học ra ở Hà Nội số 4-2008), tôi thấy người
ta cho biết triều đình Nhật có cả một Thư viện gọi là Văn khố hoàng gia, sau gọi
là Sảnh thư, chuyên cất giữ sách Trung Quốc. Một văn khố khác mang
tên Văn khố Hồng diệp sơn hoặc Văn khố nội các, hoặc Quốc
lập công văn thư quán,đến nay còn lưu giữ 185.000 quyển. Đại khái có thể ước
tính 50% điển tịch đời Tùy, 51,25 % điển tịch đời Đường đã được nhập vào xứ sở
Phù Tang.
Tài liệu trên còn đưa ra một con số: tới đầu thế kỷ XIX từ
70 đến 80% sách in ở Trung Quốc đã được chuyển sang Nhật. Mà ở Trung Quốc sách
in ra lúc đó đã tới 100.000 loại (loại chứ không phải cuốn ).
Còn ở Việt Nam thì sao? Trên tôi đã nói là sử ta không mấy
khi nhắc tới việc buôn bán trao đổi sách.
Chỉ đọc cuốn Lịch sử
Đông Nam Á của D.G.E.Hall, một giả người Anh ( lần đầu in ở SG trước
1975, 1994 được in lại ở HN) tôi mới thấy ghi thời thế kỷ XVII, chúa Trịnh
từng có lệnh cấm truyền tay sách Trung Quốc (sách này do những người Tàu nhập
cư mang vào).
Sang đến đời Nguyễn vua quan có
chú ý hơn tới việc học hỏi Trung Hoa qua sách vở, nhưng chưa thể nói là đã có một
chủ trương, đừng nói là có một cách tổ chức hợp lý, cho việc du nhập sách ở nước
ngoài . Đây cũng là tình trạng giao lưu văn hóa bị hạn chế ở ta suốt thời trung
đại.
Có lần tôi được nhà sử học Dương Trung Quốc
cho biết ngày xưa các vị quan đi sứ, khi về hàng hóa bị kiểm tra rất ngặt
nghèo, chỉ có hai thứ được khuyến khích là thuốc quý và sách. Nhập hàng theo lối
tiểu ngạch như vậy, mà lại nhỏ giọt, nên khi mang về sách trở thành quá ư là
quý hóa, thường người mang về chỉ giữ cho riêng mình.
Tệ nhất là trường hợp nhiều
vị trong số các sứ giả ấy – vốn không hề có ý thức rằng mình là sứ
giả văn hóa – có được sách mang về liền giấu giấu diếm diếm rồi thuổng
luôn của người ta, lấy của người làm của mình hoặc coi đó làm mẫu, mô phỏng theo.
Một đôi khi người có sách lại kín kín hở hở mang ra khoe nhưng chỉ là để
trộ thiên hạ và làm giá cho bản thân.
Sách ngoại như vậy là chết
luôn sau khi vào xã hội Việt, hỏi còn đâu vai trò kích thích việc làm sách
trong nước.