VŨ TỪ TRANG
Tháng chạp màn sương trùm đất nước
Gió mùa chết héo mạ xanh non
Sương muối thấm vào bao đạn ướt
Dân đang gánh gồng cả cơ nghiệp
Mái nhà trăm năm thôi để lại
Lạc chủ, chó gầy mắt hoang dại
Ru con gửi gấm những quê nhà
Nôi con đã chất cao thù hận
Thành luỹ ngăn đường chặn chiến xa”
Bài thơ viết năm 1947, mô tả hậu phương đang rộn rịp chuẩn bị cho ngày tổng tấn công. Tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh và tình quân dân trong bài thơ rất đẹp. Ai nấy đều phơi phới niềm tin. Đặc biệt, tình cảm người dân với vị lãnh tụ thật gần gũi, ấm áp.
Nghe tiếng sung rơi miệng chiến hào (Nói thuận: Chiến hào, có tiếng sung rơi)
Bờ tre cây rơm thôi tịch mịch
Vỡ lá bàng khô bước du kích (Nói thuận: Bước chân du kích dẫm vỡ lá bàng khô)
Rõ ràng, với cái tài biến hóa con chữ của nhà thơ, câu thơ bỗng trở nên kỳ ảo, thần thái biết bao nhiêu.
Tiếng nêu đưa khánh dưới mưa phùn
Hương đen ngũ quả, màu tranh Tết
Câu đối mực tàu bay xạ ngát
Mang câu đối đỏ niềm son sắt
Tiếng hát hành quân vui trong mưa
Gió bấc về sân buổi tiễn đưa
Nải chuối tiễn nhau em mới cắt…”
Cả bài thơ không nói điều gì to tát, không triết lý cao siêu. Chỉ tả những nét đời sống giản dị, mà có sức gợi, sức mở cho cảm xúc người đọc. Cái tài của Quang Dũng, chỉ cần dùng những ngôn ngữ rất mộc, dân dã, mà lại chứa chất cảm xúc thanh cao, sang trọng. Nó tạo ra phong vị, phong cách riêng, mà chỉ riêng Quang Dũng mới có. Thơ Quang Dũng có vẻ đẹp trang trọng, kiêu sa được ẩn trong vỏ bọc ngôn từ bình dị. Có người nói, đọc thơ (và văn) Quang Dũng, như thưởng thức vị kẹo bột, kẹo vừng. Nó mộc, dân dã, nhưng lại có vị sang riêng, không thua kém bất kỳ hương vị tân kỳ nào khác. Ông là người làm thơ sớm. 16 tuổi, ông có bài thơ “Chiêu quân”. 19 tuổi, ông viết “Cố quận”. Đó là những bài thơ với bút pháp rất điêu luyện. Nếu ông có ý thức lưu danh gửi đăng những bài thơ này kịp thời, thì chắc ông đã được xếp vào hàng ngũ các nhà thơ trước cách mạng, như Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh, Anh Thơ... Với nghệ thuật, cả văn thơ và nhạc họa, Quang Dũng như một nghệ sỹ tài tử. Nhưng trong bất kỳ thể loại nào, ông đều đạt ngưỡng bậc mà đồng nghiệp và độc giả đều kính nể. Đến nay, qua thời gian sàng lọc, những bài thơ của ông, như “Tây Tiến”, “Đôi mắt người Sơn Tây”, được xếp vào cùng các bài thơ hay của thời kỳ chống Pháp đã được công nhận, như “Tình sông núi” của Trần Mai Ninh, “Lên Cấm Sơn” của Thôi Hữu, “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Đồng chí” của Chính Hữu, “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm...
Ngoài làm thơ, Quang Dũng còn viết văn. Văn của ông, cũng có phong vị đặc biệt. Hai tập ký “Rừng về xuôi” và “Nhà đồi” của ông, thẫm đẫm cảm xúc của một nhà thơ viết văn xuôi. Bài ký viết về số phận con tàu bị chìm khuất dưới lòng sông, như ông viết về số phận một con người. “Hoa lại vàng thánh chạp”, bài ký bảng lảng nỗi niềm kiếp người trước thời gian. Ông là người tài hoa. Những bức tranh bột màu, một vài ca khúc của ông sáng tác, chứa chất một phong vị rất Quang Dũng. Ông tự nhận mình như đám mây đầu ô lang thang “Mây ở đầu ô mây lang thang/ Ôi! chật làm sao/ Góc phố phường...”
Ông là người chịu nhiều thăng trầm. Nhưng ông luôn biết tạo ra niềm vui nho nhỏ trong đời sống thường nhật. Những ngày gia đình ông còn ở căn buồng trên gác ngôi nhà cuối phố Bà Triệu, sáng sáng ông vào công viên Thống Nhất tập thể dục, đồng thời hồn nhiên mang theo bao tải, để một công hai việc. Chả là ngày đó tem phiếu còn khó khăn, gia đình ông phiếu dầu không đủ đun, thường phải đi kiếm củi, lá khô về đun thêm. Nhà chật chội, ông rất thú vị được ra công viên hít thở. Ông thường nói vui, ấy là đi “tẩm bổ... ô xy!”. Đã thế, sau mấy động tác thể dục buổi sáng, là ông đi nhặt lá rụng cho đầy bao tải, khoác về nhà, đem phơi, để thêm thắt đồ đun cho gia đình. Nom dáng to lớn của ông, khoác vai bao tải lá, thật là cảm kích. Ông sống, làm việc bình dị của con người bình dị. Hẳn trong công viên và phố xá, ít người biết ông là nhà thơ, nhà văn danh tiếng.
Ông là người biết coi nhẹ việc đời, mà có thể người khác cho là nặng nhọc, nhếch nhác. Với ông, tự thấy mình là người bình thường, thì lo lắng việc bình thường, giúp vợ con được chút gì, là tốt điều đó.
Ngày ấy, nhà ông ở gần nhà ông Lữ Giang. Nhóm bộ ba của ông thi thoảng lại tụ tập nhà ông Lữ Giang. Ông nhà thơ Lữ Giang, có bài thơ “Tiếng đàn bầu”, được nhạc sỹ Nguyễn Đình Phúc phổ nhạc thành ca khúc rất ngọt ngào. Nhà ông là cái tum trên sân thượng một tòa nhà, thành ra, các nhà thơ nhà văn hay tụ họp. Những bữa “liên hoan” của các ông, tại nhà ông Lữ Giang, thật đến linh đình. Ấy là nồi nước chè xanh đặc xít và xoong lạc luộc, khoai lang luộc và hạt mít luộc. Tôi đã mấy lần được dự “liên hoan” thân mật của các ông. Ông Ngô Quân Miện, ông Trần Lê Văn từ Bà Triệu, Hàm Long kéo xuống. Ông Yên Thao, nhà thơ châm biếm, trong kháng chiến chống Pháp có bài thơ “Nhà tôi ở mé bên đồi/có giàn thiên lý...” bên Phố Huế kéo sang. Ông Tạ Hữu Yên, nhà thơ đại tá quân đội, luôn xẻ tem phiếu thực phẩm cho nhà thơ Lữ Giang đông con, ở dưới Trương Định ngược lên. Mỗi bận ông lên, thường mang theo mấy chiếc bánh đa nướng ròn. Nhà thơ Quang Dũng chỉ việc đi mấy bước qua đường, là có mặt trên cái tổ chim cu sân thượng của ông Lữ Giang. Có bữa, có ông mang gói kẹo bột, kẹo vừng đến góp vui. Những bữa liên hoan, thường tổ chức vào những đêm trăng sáng. Sân thượng nhà ông Lữ Giang tràn ngập ánh trăng. Khuôn mặt các nhà thơ nhà văn thân hữu cũng ngập tràn ánh trăng. Khoai lang luộc bở, lạc luộc bùi, nước chè xanh thật quyện, thật linh đình. Sự thanh đạm của các ông, cho tôi cảm giác, vật chất là thứ các ông hình như không màng tới. Cái chính là gặp gỡ nhau, được trò chuyện với nhau đôi câu. Tôi thấy tình cảm của các ông vô cùng yêu thương và thuần khiết. Hầu như mỗi ông có cái vất vả riêng, nhưng không thấy ông nào kêu ca chuyện vất vả. Họ trò chuyện ôn hòa, đôi lúc pha trò cười nhẹ nhàng. Không thấy ai to tiếng, mặc dầu, mỗi ông đều có cảnh ngộ thua thiệt riêng biệt.
Tôi cũng có đôi ba lần được đi theo các ông “giang hồ, xê dịch” đó đây. Nào có đi xa xôi gì đâu, chỉ quanh quanh Hà Đông, Sơn Tây, hoặc sang đất Kinh Bắc quê tôi. Không xe cộ ô tô đưa đón gì, mà thũng thẵng mấy bác cháu đạp xe đạp.
Một chuyến đi khó quên. Ấy là mấy bác cháu đạp xe về thăm chùa Tiêu bên Từ Sơn (Bắc Ninh). Cảnh trí chùa Tiêu dễ gợi cho mấy bác cháu liên tưởng tới tiểu thuyết “Tiêu Sơn tráng sĩ” của Khái Hưng thuở nào. Rồi trên đường về, mấy bác cháu ghé thăm ngôi nhà bố mẹ tôi ở quê Trang Liệt. Vừa dắt xe vào đầu ngõ, thấy lố nhố người vận áo xô trắng, chất khăn tang trắng. Mấy bác cháu sửng sốt, nhà tôi đột ngột có tang? Thì ra, không phải, mà nhà bên kẽ ngạch có người mất. Việc tang lễ quê tôi vẫn có thói quen ngồi nhờ cả mấy nhà hàng xóm.
Mấy bác cháu vừa vào nhà, nhà thơ Quang Dũng khởi xướng cùng sang nhà đám viếng lễ. Theo tập tục, mấy bác cháu đứng vái vong hồn người quá cố. Ông con trưởng nhà đám, vốn là dân tri thức, từng đi abộ đội chống Pháp, mặc áo xô chít khăn trắng đứng đáp lễ bên linh cữu. Khi nghe tôi giới thiệu nhà thơ Quang Dũng, ông liền tiến tới cúi gập mình, vái ba vái nhà thơ, thay cử chỉ bắt tay. Ông nói rằng, thời trẻ, đã thuộc làu bài thơ “Đôi mắt người Sơn Tây” và bài thơ “Tây Tiến”. Ông và đồng đội vẫn nhẩm đọc trên đường hành quân. Phục nhà thơ quá, ông lại cúi lạy tiếp ba lạy. Nhà thơ Quang Dũng quá bất ngờ, vì có người vái sống mình, liền cúi đầu, khoanh tay vái tạ ba vái. Thấy nghĩa cử bất ngờ, nhiều người nhà đám ngỡ ngàng, không rõ đầu đuôi. Riêng tôi, tôi cảm kích vô cùng. Tôi hiểu, thơ là cầu nối cho con người gần nhau và tôn kính nhau.
Mỗi lần nhớ lại một vài kỷ niệm nhỏ về nhà thơ Quang Dũng, tôi lại thấy xốn xang vô cùng. Những kỷ niệm nhỏ bé, nhưng tôi thấy đó là hạnh phúc lớn của nhà thơ mà không phải ai cũng có được. Như thế, tôi thấy mọi thua thiệt này khác của người cầm bút, cũng chả nghĩa lý gì. Hạnh phúc cao nhất của người viết, là khi tác phẩm của mình viết ra, được bạn đọc quý mến, trân trọng. Tôi thêm nhớ những vần thơ ông viết trong bài “Đôi mắt người Sơn Tây”: “Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm. Em đã bao ngày em nhớ thương?”
Tôi đã nhiều lần về phố Phùng, quê hương nhà thơ Quang Dũng. Mỗi lần qua đoạn sông uốn mình bên phố huyện, lại nhớ câu thơ nao lòng của ông: “Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc. Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng”. Câu thơ mộc, mà da diết biết chừng nào.