Những bức thư được Th, nhân vật chính - người kể chuyện - một nhà văn nữ gốc Việt viết tại khu Pigalle, Paris, bắt đầu từ ngày 19/10 đến ngày 2/11/2016 cho Mina, một người bạn gái gốc Afghanistan mà cô đã mất liên lạc sau ngày cả hai tốt nghiệp đại học ở Nga. Những bức thư ấy không bao giờ được gửi đi, nhưng chúng đã làm nên trục chính của tiểu thuyết.
Chiến tranh và những thân phận nhập cư trong tiểu thuyết Thư Gửi Mina
HOÀI NAM
Triết gia Đức F. Nietzsche vốn là người không ưa những gì chỉ xuất hiện một lần rồi tan biến, cái có giá trị với ông là cái phải được lặp lại vô số lần (sự quy hồi vĩnh cửu). Bởi thế, có thể giả định, nếu đọc “Thư gửi Mina” (NXB Phụ nữ & Phanbook, 2019) tiểu thuyết mới nhất và dày nhất trong số những tiểu thuyết đã công bố của nhà văn Thuận, hẳn ông sẽ thấy có đôi chút thú vị. Vì ở cuốn tiểu thuyết này, về cơ bản, Thuận tái sử dụng hình thức tiểu thuyết bằng thư, một trong những hình thức xuất hiện rất sớm trong lịch sử tiểu thuyết châu Âu, nhưng sau đó gần như bị bỏ quên. Những bức thư được Th, nhân vật chính - người kể chuyện - một nhà văn nữ gốc Việt viết tại khu Pigalle, Paris, bắt đầu từ ngày 19/10 đến ngày 2/11/2016 cho Mina, một người bạn gái gốc Afghanistan mà cô đã mất liên lạc sau ngày cả hai tốt nghiệp đại học ở Nga. Những bức thư ấy không bao giờ được gửi đi, nhưng chúng đã làm nên trục chính của tiểu thuyết.
Chính xác thì nhà văn Th đã kể rất nhiều câu chuyện: chuyện ở Hà Nội thời bao cấp, chuyện ở Nga đêm trước cải tổ, chuyện ở Pháp thời hiện tại, chuyện đời sống gia đình chật chội và trống rỗng, chuyện mối tình xưa tuyệt vọng và lặp lại đến nhàm tẻ, và đặc biệt là chuyện về cuộc sống tha hương khốn khổ đủ kiểu bi hài của những người Việt Nam nhập cư thuộc nhiều thế hệ, nhiều xuất phát điểm xã hội khác nhau. Có khi đó là những chuyện đã thực sự xảy ra, có khi đó lại là những chuyện chỉ nằm trong trí tưởng tượng, sự phỏng đoán, đồ chừng, giả định của một người kể chuyện đang đối thoại mà thực chất là độc thoại. Có thể thấy Thuận khá nhuyễn trong thực hành kỹ thuật mà các nhà tự sự học gọi là trò chơi “mặt nạ tác giả”, khi chị tạo ra một “tác giả hiển thị”, một “người kể chuyện không đáng tin”, một cái “Tao” đang kéo cái “Mày” – cô bạn gốc Afghanistan – và độc giả nói chung, vào tâm thế “bất tín nhận thức”. Có tiếng nói ngầm, tựa như một khuyến cáo cất lên ở đây: đừng tin rằng những chuyện này có thật, nhưng cũng đừng không tin rằng những chuyện này chưa từng hoặc sẽ không bao giờ diễn ra trong cuộc đời này. Một cách viết khước từ sự quả quyết chắc chắn của chủ thể viết, thế nhưng trong “Thư gửi Mina”, nó đồng thời xoáy vào và làm bật lên những chủ đề nhức buốt của thời đại đầy biến động mà chúng ta đang sống: Chiến tranh, di dân, và những thân phận nhập cư.
Có thể thấy lạ khi tôi nói đến chủ đề chiến tranh, vì ở trục chính của cuốn tiểu thuyết này, chiến tranh hoàn toàn vắng bóng, có chăng, nó nằm ở những “Tin Afghanistan” mà tác giả cài xen kẽ giữa các bức thư, có thể là một bài báo, một bản báo cáo, một ghi chép, một nghiên cứu, v.v… Nhưng ghép lại, nó mang đến cho người tiếp nhận hình ảnh tổng thể về một đất nước Afghanistan bị giày xéo, bị xé nát suốt mấy chục năm trường, người dân phải triền miên sống trong đau khổ, sợ hãi, chết chóc. Nhiều người đã chọn con đường rời bỏ đất nước, trở thành những di dân, chấp nhận đối diện với những biến chuyển chóng mặt của cuộc sinh tồn cùng những thách thức lớn lao của sự đối kháng văn hóa, và ở điểm tột cùng, chấp nhận khoác lên số phận cuộc đời mình chiếc áo rách tướp thảm thương và đầy tủi nhục của những kẻ không còn Tổ quốc, nỗi phiền toái đáng ghét đối với các chính trị gia và người dân ở những nước mà họ đã và đang ào đến như những làn sóng, bất kể biên giới sau đó rồi sẽ mở cửa hay đóng cửa trước họ.
Thực tế ấy đã tạo một kết nối ngay ở bức thư đầu tiên, khi nhà văn Th nghe đài phát thanh đưa tin mới nhất về làn sóng tị nạn từ Trung Cận Đông và tưởng tượng ra cô bạn mình đang: “vạ vật tại một cửa ô nào đó của vành đai, nơi dân Paris chỉ ghé để đổ rác”… Tuy nhiên đấy chỉ là khởi điểm, là thành phần phụ mang chức năng tương hỗ cho dòng chủ lưu trong “cái được viết” của Thuận mà thôi. Điều quan trọng đối với Thuận, hay đối với nhân vật nhà văn Th - người kể chuyện cũng vậy, chính là người nhập cư Việt Nam cùng tất cả những vấn đề thuộc về tồn tại nhân sinh của họ, trên một đất nước không phải là Tổ quốc. Qua những mô tả đậm nhạt khác nhau, hàng loạt chân dung người Việt nhập cư đã hiện lên và làm thành bức tranh tổng thể về một cộng đồng vừa khốn khổ vừa nực cười, một cộng đồng ở bên lề và ở dưới đáy. Này là một thiếu nữ xứ Nghệ làm công nhân dệt may ở Ba Lan, sau ngày phá tường Berlin đã “chạy một mạch từ Đông sang Tây, vượt không biết bao nhiêu biên giới, bị hiếp không biết bao nhiêu lần, tốn không biết bao nhiêu tiền cho cảnh sát biên phòng và mafia buôn người, tới đúng chân tháp Eiffel thì dừng, rồi ra đứng ở khu đèn đỏ Saint-Denis”. Này là những đứa con trai con gái Móng Cái, Cà Mau mới lớn, “mặt mày xám ngoét, tóc highlight, toàn thân bốc mùi rượu nặng và nước hoa rẻ tiền”. Này là một bà luống tuổi đang hồi tàn tạ, dường như xuất thân vũ nữ Saigon Maxim’s trước 1975, chủ tiệm may mang tên Saigon Cali Tailor, “bé nhỏ nhất trong các tiệm may mang tên Sài Gòn”. Này là một trung niên thi sĩ Nam Định, chủ quán ăn Asia Royal Food, đầy đủ lệ bộ complet mũ nồi, luôn miệng đọc thơ tình ái sướt mướt cùng lúc với phục vụ khách hàng món canh bánh đa nấu với thịt băm viên, “không hiểu cất vào tủ đá cách đây một tuần, một tháng hay một năm, nhưng có vẻ được ướp với rất nhiều sả, bột quế và tinh dầu dừa”… Nhưng được mô tả chi tiết hơn cả, phải là cặp nhân vật ma-đam Chiến và me-xừ Chắt (Chiến và Chắt, nếu phát âm theo kiểu Pháp thì có nghĩa là Chó và Mèo). Nghiệt ngã đến mức không thể nghiệt ngã hơn được nữa khi – như thể chứng minh cho lời của nhà văn Th: “Có lẽ mày bắt đầu hiểu phải làm nhân vật của tao là một điều không may, Mina” - tác giả đẩy cặp nhân vật nhập cư của mình xuống ngang hàng loài vật, bằng cái tên, và bằng cả cách bắt họ phải sống với những nhân thân lắt léo trá hình, mượn danh, chỉ làm những công việc hạ tiện, chỉ tồn tại trong những khuất lấp và bóng đêm tăm tối. Cái cách thế tồn tại ấy có thể ít gây sốc với ma-đam Chiến – xuất thân giáo viên tiểu học nghèo ở Sài Gòn, bị chồng bỏ rơi, một mình nuôi hai con nhỏ, đời sống vô cùng khó khăn – nhưng với me-xừ Chắt – cựu cán bộ ngoại giao Hà Nội – thì nó là cả một sự lộn trái thân phận. Sự lộn trái này khởi đi từ hành động “tuột xích”: nhân chuyến tham dự hội thảo quốc tế tại Cộng hòa Dân chủ Đức, Chắt đã vượt bức tường Berlin sang Tây Đức một cách ngoạn mục, mọi sắc độ của cái bi và cái hài được trộn lẫn và liên tục chuyển tiếp. Với nhà văn Th - người kể chuyện, thì nó cần phải xuất hiện để dẫn chiếu đến một đoạn quá khứ của dân tộc Việt Nam: “Mày biết tao luôn thèm có dịp được cho nhân vật tới Berlin, nơi vẫn giữ dấu tích của bức tường ngăn cách Đông -Tây mà mỗi khi nhìn, tao không thể không nghĩ tới Bến Hải. Sông Bến Hải đã một thời chia đôi đất nước chúng tao”. Ấy chính là quá khứ chiến tranh. Chính chiến tranh chết chóc cùng cuộc sống cơ hàn kéo dài, như một hệ quả tồi tệ của nó, đã trở thành cái bóng ma phủ trùm lên tất cả và tham gia vào sự cắt nghĩa cho tất cả nỗi khốn khổ tủi nhục của những di dân Việt, những kẻ nhập cư thuộc vào hạng bét bên Âu Mỹ.
Có mối liên kết nội văn bản, khi trong một bức thư nhà văn Th đã kể cho Mina nghe về một cô bạn gái khác, tên Pema: Pema ngửi thấy mùi chiến tranh trên cơ thể của anh người yêu là phóng viên chiến trường trở về từ Kabul, cái mùi bốc ra từ mọi ngóc ngách da thịt, mọi đồ đạc cá nhân, mọi câu chữ, bức ảnh về chiến tranh của anh, và cô không thể làm tình với một người đã sống ba tháng liền ở Kabul, cái nhà xác vĩ đại ấy.
Những dấu hiệu hậu hiện đại đặc trưng khác, như giễu và nhại - nhại văn phong, nhại thể loại, nhại phong cách - cũng xuất hiện tràn ngập trong “Thư gửi Mina”. Và không thể không nói tới “siêu hư cấu”, tức sự hư cấu đang tự ý thức về chính nó như một hình thức hư cấu. Trong các bức thư, ta luôn bắt gặp sự chia sẻ những băn khoăn, những giả thiết của người viết (Th) với người đọc (Mina) về hành động của nhân vật và cách câu chuyện diễn tiến: “tao hình dung là”, “tao ngờ rằng”, v.v… Nghĩa là, câu chuyện không phải đã xảy ra, mà nó xảy ra cùng lúc với hành động viết của người kể chuyện, đây là một trò chơi, đúng như Th từng có lần xác nhận với bạn: “Tao chỉ viết về những điều tao chưa biết”. Ở bức thư cuối cùng, viết ngày 20/12/2017, nhân vật chính - người kể chuyện Th, mà cũng chính là tác giả Thuận, đã công khai tính chất “trò chơi ngôn ngữ” của việc viết thư và viết tiểu thuyết nói chung, khi tâm sự với bạn: “Tự thâm tâm, tao muốn mày đọc chúng. Có lẽ đó là lý do tao sẽ cho xuất bản mà không chỉnh sửa. Đây có thể được coi là một tác phẩm văn chương không, tao không biết. Nhưng thế nào là một tác phẩm văn chương, tao cũng có biết đâu”.
Viết như thực hành một trò chơi ngôn ngữ, chính là điều mà Thuận đã làm rất tốt trong cuốn tiểu thuyết này. Nhưng ở bên dưới và ở bên trong cái trò chơi ấy lại không hề là một tâm thế chơi, giỡn để cho vui: Thuận đã lách vào được một số khía cạnh thâm thiết nhất của đất nước mình, của cộng đồng mình, và của thời đại mà chị đang sống.
Nguồn: Tinh Hoa Việt