Khóa 6 của chúng tôi được triệu tập đâu đó vào đầu mùa hè năm 1973, tức sau ngày đã ký kết Hiệp định Paris. Nghe nói-hai khóa trước, khóa 4, khóa 5 nhằm bồi dưỡng những người viết trẻ để ngay sau khi kết thúc lớp học, các bạn nhận ba lô cóc, ruột nghé đựng gạo, tăng võng lên đường vượt Trường Sơn vào chiến trường. Đó là khóa học của các bạn viết như Nguyễn Trọng Định, Nguyễn Mỹ, Triệu Bôn, Trần Thị Hồng, Nguyễn Trí Huân, Lê Ái Mỹ… Khóa 6, hơi khác chút, gom nhiều người ở các chiến trường ra, ở “những điểm nóng” tới: Phạm Tiến Duật đang từ những Xê Ca Máng, Xê Băng Hiên- những con sông con suối cắt ngang đường mòn Hồ Chí Minh, phía Nam nước Lào được trở ra Hà Nội. Tôi từ vùng chiến sự Tân Cảnh, Đakto, phía Bắc Kontum. Từ tuyến lửa Nam Khu IV có Hoàng Vũ Thuật, Lê Thị Mây. Từ vùng mỏ Quảng Ninh vào có Tô Ngọc Hiến, Nguyễn Sơn Hà. Từ bên kia sông Cầu, sông Đuống qua có Vũ Từ Trang, Trần Anh Trang. Lớn tuổi nhất có “lão tướng” Ma Văn Kháng, còn nhỏ tuổi nhất là Lê Minh Khuê.
Tô Hoàng, Nguyễn Trí Huân, Lê Lựu, Triệu Bôn
Ảnh tư liệu của Văn Nghệ Quân Đội
Hiệp định Paris đã được ký kết. Mặt trận dân tộc Giải phóng đã có thủ phủ chính thức ở Lộc Ninh (phía Nam) và Đông Hà (phía Bắc). Bom đạn đã thôi sôi réo… Ấy vậy, nhớ lại, tôi nhớ rõ ở thời điểm ấy không một ai trong số học viên chúng tôi tin rằng đã có một nền hòa bình vĩnh viễn. Và đi kèm theo, như một logic tự nhiên, là cảm giác về một món nợ văn chương còn đeo nặng trên vai, chưa trang trải. Cũng nhớ rõ, chưa một ai trong chúng tôi có thể hình dung ra sẽ có lúc đất nước cờ hoa reo vui vì sum họp sau ngày 30/4/1975. Và tiếp nối là những khó khăn, bế tắc của những năm hậu chiến...
Vẫn moi óc nhớ lại, trong giờ thảo luận sau những tiết học, trong câu chuyện đàm đạo chủ nghĩa anh hùng và sự hy sinh, mất mát của đồng chí, đồng bào vẫn là những gì thao thiết, được động chạm tới nhiều nhất. Chưa ai gợi ý chuyện cách tân văn chương, thơ phú. Càng không thấy một ai bộc bạch dự định muốn lật ngược, đào sâu đề tài hơn, để tìm tới những gì ở phía sau chiến công; những “được”, “mất ” ..
Trẻ trung, tếu táo, đầy sôi nổi, khát khao của tuổi trong ngoài 30 nên cũng sinh ra biết bao chuyện không thể quên… Hai học viên ở chung một phòng, hai chiếc giường, hai ngọn đèn, hai bàn viết. Ở với nhau đâu đó chừng 2, 3 tuần không một ai muốn ở chung phòng với Tô Ngọc Hiến. “Tớ là thợ tiện Nhà máy cơ khí Cẩm Phả. Cánh thợ chúng tớ quý ngày nghỉ phép còn hơn vàng. Thú thật với các cậu, động cơ ban đầu tớ tới với công việc viết lách này chủ yếu là để được nghỉ thêm nhiều ngày trong một năm!”. Tối tối, thường 9 giờ Hiến đã chui vào màn. Rồi khoảng 12 giờ hơn đã vén màn chui ra và cứ thế cho tới sáng bảnh đi vòng vèo trong phòng, miệng nói to lên câu chuyện sắp viết; hoặc vào vai các nhân vật trong truyện bàn thảo hay cãi cọ với nhau… Lại Đỗ Chu bình luận: “Khôn hồn cứ để mặc lão ấy như thế. Bác sỹ nói nó mắc bệnh mộng du. Thằng nào chạm tay đánh thức, lão ấy lăn đùng ra chết là đi tù cả nút! Khốn nạn, mang cái vạ văn chương vào người khéo chết yểu mất!”.
Ôi những kỷ niệm như vậy kể sao cho hết!
Ngoài nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh ra, có mặt thường xuyên ở trường theo dõi những trang viết mới của chúng tôi có các nhà văn Đoàn Giỏi, Nguyên Hồng… Các nhà văn Nguyễn Đình Thi, Bùi Hiển, Nguyễn Thế Phương…, các nhà thơ Xuân Diệu, Tế Hanh, Quang Dũng… như những giáo viên thỉnh giảng lên trại Quảng Bá trao đổi, trò chuyện về kinh nghiệm viết, chuyện “bếp núc” của nghề.
Lại cũng cố nhớ cho thật chính xác, rằng suốt mấy tháng ấy không có một cán bộ tuyên giáo nào tới “lên lớp” các bài chính trị khô khan, công thức. Cũng không một ai cao giọng uốn nắn nên sống thế này, viết thế nọ… Thầy nếu dư dả đồng tiền rủ trò đi cà phê Lâm hoặc ra đường Thanh Niên ăn bánh tôm. Trò về quê, xách con gà, mớ cá lên liền “nổi lửa” làm một bữa “ấm chân răng” mời thầy. Những bài giảng đều là sự thủ thỉ, giãi bày, tâm tình của cha chú với cháu con; của lớp đi trước với lớp đàn em đi sau. Nói thêm điều này, để thấy dạo đó và mãi chục năm sau này nếu thơ phú vẫn lấy giọng “không có kính không phải vì xe không có kính” hoặc “ở giữa chiến trường nghe tiếng bom rất nhỏ” làm “khuôn vàng, thước ngọc”; văn chương vẫn chưa vạch được lằn ranh với ghi chép báo chí bao nhiêu; cảm hứng anh hùng vẫn chiếm vị trí độc tôn…thì lỗi ấy không phải do các thầy, không phải do lớp bồi dưỡng năng khiếu; cũng không do một sự uốn nắn nào gây ra. Lỗi ấy là ở chính chúng tôi, do chúng tôi- khi xung quanh mình, ngước lên nhìn xuống, quay phải quay trái đâu đâu cũng cảm, cũng nghĩ như nhau vậy cả.
Nhiều nhà văn, nhà thơ vào chiến trường từ những năm 1965, 1966, dịp ấy ra miền Bắc để an dưỡng hoặc chữa bệnh, cũng được mời tới trường. Nhà văn Lê Khâm với bút danh Phan Tứ đang được ngợi khen với tiểu thuyết “Gia đình Má Bảy”. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng với tập truyện ngắn “Chiếc lược ngà”. Nhà thơ Liên Nam với những bài thơ rừng rực nhiệt huyết về chiến trường Khu V đầy gian lao, thử thách. Các nhà văn, nhà thơ xếp ra trước mặt những chồng dày sổ ghi chép. Và mở ra đọc cho chúng tôi nghe những trang chưa phải thành văn, về tấm lòng yêu thương bộ đội giải phóng, về tấm gương chiến đấu của các bà má, các chị, các em nhỏ ở vùng đất Quảng Đà, ở Vĩnh Long, Mỹ Tho, Cà Mau… Chúng tôi vừa thèm thuồng kho chất liệu sống ấy, vừa bừng bừng nỗi khao khát được mau chóng đặt chân tới những mảnh đất chiến trường xa, để “chia lửa” với đồng chí, đồng bào; để gom tích lượng vốn sống không dễ gì có được kia..
Một buổi sáng bác Nguyễn Tuân lên lớp. Ông già chậm rãi, thủng thẳng kéo ghế ngồi. Cũng với tốc độ chậm rãi, thủng thắng ấy bác Nguyễn lấy từ trong chiếc túi đựng đồ bơi mang theo cái phích nước hãm trà và một chiếc bánh dày kẹp giò chả. Không để ý tới học viên phía dưới đang trố mắt thích thú theo dõi từng cử chỉ của bác, “bậc trưởng thượng” ăn hết cái bánh dày, uống hết chén nước trà mới nhìn xuống đám chúng tôi cất tiếng hỏi:
- Ở nhà các anh chị có đọc sách không?
Phía dưới lao xao, nhưng không ai dám cất tiếng vì biết bác Nguyễn vốn là người thâm nho, hóm hỉnh.
- Tôi hỏi thật đấy! Ở nhà các anh chị có đọc sách không? Các anh các chị hãy cảnh giác với mình. Nhỡ các anh chị đang không đọc sách mà đang đọc chữ thì sao ?
Sau đó là 5 phút, bác Nguyễn giảng giải: Đọc sách khác với đọc chữ ra sao.
Tiếp tới một câu hỏi nữa: Ở nhà đang viết văn hay đang viết chữ? Thêm 5 phút rạch ròi làm rõ viết văn khác viết chữ như thế nào.
Bác Nguyễn đứng lên xếp phích hãm nước trà, cái tách vào chiếc túi đựng đồ bơi, câu cuối quay xuống hỏi nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh:
- Ở khóa này có tất tật bao nhiêu học viên cả thảy, ông Sanh ơi?
Nhà thơ:
- Dạ thưa bác, 45 ạ!
Bác Nguyễn:
- Chà, cứ mỗi năm Hội Nhà văn cung cấp cho đất nước 45 nhà văn. Vậy trong vòng 10 năm chúng ta sẽ có thêm 450 nhà văn. Lấy giấy má đâu mà in thơ, in văn nhỉ? Nghề viết lách khó lắm, cơ cực lắm. Qua lớp này, nếu anh chị em nào thấy đuối sức, không kham nổi hãy mau mắn trở về với nghề cũ, công việc cũ. Đừng tự hành hạ, dày vò mình cho khổ!
Đây cũng là một bài học thật bổ ích, thật thiết thực, thật rút ruột rút gan… Mà càng lận đận, càng nhọc mệt, càng vật vã theo đuổi nghiệp văn, nghiệp chữ tôi càng cay đắng, xót xa tự trách mình vì không sớm ngộ ra lời khuyên của bác Nguyễn Tuân!