Hôm ngồi với Bảo Ninh, tôi đã từng nói: thế nào rồi cũng sẽ có những nhà văn tầm cỡ xuất hiện! Nhưng mà không phải từ trong đám được các giải thưởng đâu. Đoạt giải chỉ có tác dụng trước mắt là kiếm được công ăn việc làm ngay thôi, nhưng để tiếp tục theo đuổi phát triển nghề viết văn của mình thì không mấy người làm được. Đời sống báo chí, thực tế cuộc sống thị trường nó cuốn đi, không kịp cho anh đủ nhìn nhận mọi điều thì làm sao viết hay được.
Phỏng vấn lần 1
Trong ấn tượng của tôi, Trung Trung Đỉnh lúc nào cũng có cái vẻ ngơ ngác. Dường như sau bao năm chiến tranh ở vùng rừng núi Tây Nguyên về, nhà văn gốc Hải Phòng này vẫn còn bị ám ảnh bởi những lần chui rúc trong rừng…
Giải phóng rồi mà chúng mày không biết à?
Yên Ba: Thưa anh Trung Trung Đỉnh! Trong giới nhà văn-chiến sỹ có lưu truyền một câu chuyện khá hy hữu rằng anh là nhà văn duy nhất không biết đất nước đã giải phóng trong khi đang ở chiến trường! Thực hư của chuyện đó ra sao?
Trung Trung Đỉnh: Chuyện đó có thật và cũng đơn giản thôi. Vào cuối năm 1974, mấy tháng trước khi bắt đầu chiến dịch Tây Nguyên, tôi đang là lính ở tỉnh đội, được gọi ra quân khu để học một khoá chiếu bóng. Địa điểm tập trung tại Trà My, vùng Nước Oa Nước Ồ tỉnh Quảng Nam. Anh em về tập trung trình độ không đều nhau lắm, lại có người về trước, người về sau, bao nhiêu khó khăn về nơi ăn chốn ở, phải mất hàng tháng mới khắc phục được. Tuy nhiên khoá học vẫn được tiến hành.
Trước khi mãn khoá, một số ở xa như chúng tôi được lệnh chờ ở trạm để trên có thể trưng dụng đi phục vụ cho chiến trường. Thời gian chờ đợi lại không xác định được nên ăn không ngồi rồi mãi cũng chán, tôi bèn rủ anh Rơ Mah Chuốt người GiaRai và một anh lính của Trạm, người HRê đi săn, cũng tính lấy ít thịt cho Trạm giao liên. Anh trạm trưởng đồng ý ngay và cấp cho ba anh em tôi mỗi người khoảng 20 cân gạo, 5 cân muối (đó là cả một tài sản lớn) và bảo, cứ săn được càng nhiều thịt càng tốt. Bao giờ có lệnh thì anh cho người vô rừng gọi về.
Cả tốp đi sâu vào trong rừng. Khi đi anh Chuốt có cái đài bán dẫn, nhưng bắt sóng rất yếu, chúng tôi chọc ngoáy mấy bận thì hỏng luôn. Thế là mù tịt thông tin! Chính đó là thời điểm đánh Buôn Ma Thuột đầu tháng 3 năm 1975 .Đến cuối tháng 5, thấy thịt nhiều rồi, lại hết muối gạo, nên quyết định ra, đưa thịt về. Coi như là ở trong rừng suốt cả tháng 3, tháng 4 và tháng 5, đầu tháng 6 mới mò ra.
Khi ra, vẫn nghĩ là còn địch, nên rất cẩn thận đề phòng biệt kích. Ba anh em mò vào một cái làng dân tộc ở Trà My thấy vắng tanh. Ba thằng bám ra rẫy thấy một ông già đang say rượu nằm ngủ ở đấy. Hỏi ông ấy thì ông ấy bảo: giải phóng lâu rồi mà chúng mày không biết à? Tụi mày ở đâu ra thế này! Lúc đó, cả ba thằng có bao nhiêu đạn, chĩa súng lên trời bắn sạch…Sướng quá mà! Bắn hết đạn rồi, mới rủ nhau về Trạm. Đi mất hai ngày liền, về đến nơi thì Trạm cũng chuyển đi đâu mất rồi. Mãi sau mới gặp xe tải quân mình lên chuyển đồ từ chiến khu về, thế là theo xe về Đà Nẵng.
Lúc ấy Đà Nẵng cũng như tất cả miền Nam đều đã được giải phóng. Tôi tìm chỗ các anh văn nghệ của quân khu chơi, gặp mấy bố đang uống rượu ở 1B Ba Đình. Lúc đó nhà thơ Trần Vũ Mai mới từ Pleiku về, đang kể chuyện hăng lắm. Nói thật là lúc đó, với tâm trạng của một thằng lính, tôi ngượng quá! Cả một thời gian dài, chiến dịch lớn thế mà không biết tý ty gì, ở mãi trong rừng! Sau đó tôi về Pleiku. Lúc đó tỉnh đội Kon Tum và tỉnh đội Gia Lai đang sát nhập vào với nhau. Tôi về, được phân công làm đội trưởng đội chiếu bóng. Thế là bắt đầu công việc đi chiếu bóng cho các địa phương. Không khí sôi nổi hào hứng lắm…
Yên Ba: Điều gì sau đó khiến anh cầm bút viết văn?
Trung Trung Đỉnh: Hồi ấy, khi đang làm chiếu bóng, tôi đã quyết tâm ôn thi đại học. Tôi nghĩ: học gì cũng được, nhưng mà phải đi đại học. Đến giữa năm 1977 thì có Trường Đại học Văn hoá mở ở Đà Nẵng, cơ quan chọn tôi đi học về thư viện. Tôi mừng vô cùng! Hồi ấy tôi làm thơ nhiều, viết văn xuôi còn ít lắm! Tôi tiếc nhất là chuyện không giữ được sách. Lúc bấy giờ tôi khá thân với ông Thiệu phó ty văn hoá. Bên ấy truy thu các loại văn hoá phẩm của chế độ cũ, sách thu về xếp cả kho, tôi được đặc cách chọn sách quý khuân về, cho vào mấy cái tủ sắt cất kỹ. Đi chiếu bóng, hễ cứ rỗi tí nào là đọc sách. Toàn sách dịch thôi! Đọc nhiều, đọc liên tục. Đọc mờ cả mắt! Đọc sướng lắm! Đó chính là thời gian tôi đọc được nhiều sách nhất, đủ loại, từ văn học cho đến Kinh Thánh… Nhất là những nhà văn được giải Nobel. Hồi ấy ở miền Bắc làm gì có!
Mấy hôm trước khi xuống Đà Nẵng nhập học, tranh thủ lúc tôi đi vắng, anh em ở nhà khuân hết mấy tủ sách của tôi ra sau vườn, kê đá lên rồi chất lửa đốt sạch. Mấy ông tướng ấy thương mình thôi, sợ mình đem đống sách ấy về Đà Nẵng thì bị kỷ luật, vì toàn là sách của địch (!). Thế là về Đà Nẵng chẳng còn gì cả!
Lúc đó tôi đang viết một cái trường ca. Cũng không nghĩ là tham gia vào tầng lớp văn nghệ ở Đà Nẵng lúc ấy đâu, nhưng do quen biết nên tôi cũng hay đến chỗ các anh ấy chơi. Thực ra các anh Bùi Minh Quốc, Thu Bồn đã lên Gia Lai tìm tôi mấy lần mà không gặp. Sau giải phóng, mấy anh cũng chỉ biết tôi đang là lính ở trên đó. Thế rồi tôi đến gặp nhà văn Nguyễn Chí Trung, ông hỏi: “Bây giờ em đang ở đâu?” Tôi trả lời: “Báo cáo thủ trưởng, em đang học thư viện.” Anh ấy bảo: “Bây giờ không học hành gì nữa hết, em mang ba lô về ngay trại sáng tác, học hành tính sau”. Rồi anh ấy hỏi: “Có biết uống rượu không?” Tôi sốt sắng: “Dạ có. Em với thủ trưởng đi làm vài li nhé?” không ngờ anh ấy gầm lên: "Ở đây không rượu chè gì hết, uống rượu là tôi trả về Gia Lai ngay! Ở đây chỉ có sáng tác thôi! Theo mấy ông Thái Bá Lợi, Thu Bồn, Thanh Thảo, là không được!".Tôi sợ quá vâng dạ liên hồi. Thủ trưởng lại hỏi: “Thế em biết đi xe máy không?” Tôi biết chứ, nhưng vừa bị quạt vì vụ rượu nên rút kinh nghiệm trả lời: “Không! Báo cáo thủ trưởng không ạ!”. Anh Nguyễn Chí Trung lại gầm lên: “Giải phóng mấy năm rồi, thế anh làm cái gì mà không tập để biết đi xe máy?...”. Tôi đành thú thật là có biết đi.
Anh dẫn tôi vào quân khu làm thủ tục, nhanh như ta nấu một bữa cơm vậy. Xong xuôi, anh ấy bảo: “Bây giờ em lên “cắm” ở Tây Nguyên thôi, địa bàn của em đấy! Phải “cắm” sâu mới viết được”. Thế là tôi lại khoác ba lô “ngược”! Tôi bám các đơn vị đang phá rừng làm kinh tế mới để viết. Rồi theo các đơn vị đánh Fulrô và lên chốt đánh Pôn Pốt. Mấy năm ròng nằm ở biên giới Tây Nam cùng anh em Trung đoàn 95, chẳng còn biết hoà bình nó ra làm sao nữa. Mãi đến khi giải phóng xong CămPuChia, tôi mới được về Gia Lai. Lúc đó coi như văn nghệ sĩ đi thực tế rồi, không phải là lính tráng như hồi trước nữa! Oách lắm! Và tôi bắt đầu viết các truyện ngắn…
Toàn bộ những tác phẩm của tồi đều viết bằng ký ức
Yên Ba: Vậy là toàn bộ ký ức của những năm tháng ở rừng ấy, có phải là chất liệu để anh viết cuốn Lạc Rừng không?
Trung Trung Đỉnh:Thực ra mà nói, toàn bộ những tác phẩm của tôi chủ yếu là viết bằng ký ức. Bịa bằng ký ức! Tôi có một cái may là sau giải phóng khoảng 3, 4 năm liên tục được đọc rất nhiều sách. Đọc một cách tương đối có hệ thống, có người hướng dẫn nên vỡ ra nhiều. Hồi ở trên rừng Tây Nguyên, cũng do ham mê văn chương nên tôi suy nghĩ nhiều và ghi nhớ mọi chuyện có thể viết lại sau này. Lúc ấy đã nghĩ là để một lúc nào đó viết lại…
Hồi ở trong rừng tôi đã làm đến mấy trăm bài thơ! Còn truyện ngắn đầu tiên viết trong rừng là lúc đi đánh nhau. Đánh đồn địch vồ được một cái máy chữ, mấy ông trong đơn vị cứ tưởng mìn nên ôm cái máy chữ ra, ôm theo cả mấy cuộn giấy to như cái phích nước. Ra ngoài mới biết là cái máy chữ trong hộp. Thế là tôi kỳ cạch ngồi tập đánh. Tập đánh máy chữ riết hoá ra viết được cái truyện ngắn, cốt chuyện lấy ngay từ chuyện ở đơn vị, anh em bàn bạc nhau trước khi tổ chức một cuộc phục kích địch trên đường Hoàng Hoa Thám ở khu vực An Khê. Phục ở dưới đất mãi, đánh bụp xẹt mãi cũng ngán, có một người đề xuất ta trèo lên mấy cây khoọc bên đường phục. Phục từ trên cao, địch không cảnh giác. Nghe thấy hay, thấy khá táo bạo, cũng định làm một trận. Nhưng ra tới nơi, leo lên rồi chúng tôi lại tụt xuống vì lạnh lưng quá! Tôi viết và tả một trận đánh ngon lành kiểu ấy, diệt được xe tăng và khá nhiều địch, gửi ra quân khu theo đường giao liên hú hoạ, may mà đến được chỗ anh Nguyễn Chí Trung. Mấy anh đọc và cho in ngay trên Văn nghệ quân Giải phóng. Hình như đó là đầu năm 72 thì phải.
Mấy anh văn nghệ Quân khu biết tôi từ đó, nghe nói cũng định rút tôi ra trại sáng tác mấy lần, nhưng điện về đến tỉnh đội là tắc! Mấy bố tỉnh đội đọc truyện ấy xong cho trợ lý tuyên huấn về điều tra, gọi tôi từ phía trước về, bảo: đây là việc nghiêm trọng về vấn đề tư tưởng. Nếu là chuyện có thật thì chúng tôi sẽ đề nghị cấp trên tặng thưởng cho anh em; còn nếu không có thì đồng chí phải hoàn toàn chịu trách nhiệm! Tôi khiếp quá kể lại đầu đuôi, anh ấy bảo để anh ấy về xin ý kiến thủ trưởng. Tôi cứ nghĩ mình không có duyên với văn chương, mới viết thế mà đã phải “hoàn toàn chịu trách nhiệm” thì khó quá. Lại nữa, tên tôi là Phạm Trung Đỉnh, viết truyện đó, tập đánh máy, đánh thế nào lại thành ra Trung Trung Đỉnh. Có lẽ cũng là một cái điềm không hay rồi! Sau này thấy cái tên ấy nghe cũng giòn giã và cũng là một kỷ niệm nên tôi lấy luôn làm bút danh…
Yên Ba: Xin quay trở lại cuốn Lạc rừng của anh. Cùng với cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, cả hai đều viết dựa trên những ký ức của chiến tranh, đều được giải và có tiếng vang nhất định. Vậy theo anh có phải những cuốn sách viết về chiến tranh thì dễ đoạt giải hơn những cuốn sách viết về đời thường không?
Trung Trung Đỉnh: Theo tôi, những năm sau giải phóng và nhất là sau khi đổi mới, những cuốn sách đoạt giải được chọn lựa, đánh giá tương đối chính xác. Như cái đợt có giải thưởng của Bảo Ninh. Hồi ấy cuốn “Tiễn biệt những ngày buồn” của tôi, cũng được xem là ứng cử viên cho giải. Hội nhà văn VN bảo tôi đưa qua 10 cuốn để đọc và xét giải, nhưng tôi lại không làm. Đến bây giờ tôi vẫn luôn xem đó là cuốn sách hay nhất của mình.
Tôi cũng có đọc cuốn “Thời xa vắng” của Lê Lựu khi còn đang là bản thảo. Nghe lời ông Trần Vũ Mai hồi ấy làm biên tập khen nức nở nên tôi đọc. Thấy sướng lắm! Nói về đổi mới tiểu thuyết, theo tôi Lê Lựu là người đầu tiên. Đó là cuốn đầu tiên và đáng kể. Viết về thân phận con người thời kỳ hậu chiến tương đối cởi mở. Tôi rất phục ông Lê Lựu từ hồi đó. Tôi thấy rằng những người thuộc lớp như tôi, thực sự cầm bút viết sau 1975, viết về chiến tranh chủ yếu bằng ký ức. Cả một thế hệ!
Thực ra khi viết không ai nghĩ đến giải thưởng đâu. Nhìn chung là hầu hết đều có viết về chiến tranh, về những điều mình chứng kiến, trải qua. Những người sống trong thời kỳ chiến tranh thì lại càng viết nhiều về nó. Cái hồi 1975, ngay sau khi mới giải phóng có ba cuốn nổi bật lên ngay là của Khuất Quang Thuỵ (Trong cơn gió lốc), Chu Lai (Nắng đồng bằng) và Nguyễn Trí Huân (Năm 1975, họ đã sống như thế). Bây giờ đọc lại thì thấy đó không phải là những tiểu thuyết hoàn chỉnh (theo cái nghĩa cổ điển của thể loại này, và cũng là theo cách nhìn nhận của tôi). Đó mới chỉ là những trang ký sự chiến tranh, công nhận là rất không khí. Lúc ấy, những cuốn đó tạo nên ấn tượng khá mạnh.
Yên Ba: Nếu vào những năm 90, với các cuốn sách viết về thời bình, chắc chắn sẽ khó tạo nên thiện cảm đối với các Ban giám khảo...
Trung Trung Đỉnh:Đúng rồi! Ngay cái năm đoạt giải của Bảo Ninh, thì cả cuốn của Bảo Ninh và của Dương Hướng (Bến không chồng) đều nói về chiến tranh. Ngay cuốn của Nguyễn Khắc Trường (Mảnh đất lắm người nhiều ma) cũng có âm hưởng của chiến tranh. Tất nhiên là đều bằng ký ức. Theo tôi, cho đến bây giờ, cuốn của Bảo Ninh vẫn là cuốn hay nhất về chiến tranh. Hồi ấy tôi đọc là mê ngay và bị choáng bởi cuốn đó.
Tôi thấy mình lạc lõng ở phố phường
Yên Ba: Vậy có phải những người như anh và Bảo Ninh, viết về chiến tranh thì viết hay, viết được, nhưng viết về cuộc sống, xã hội thời bình thì lại không? Liệu có một thế hệ như thế không? Có những người viết về chiến tranh thì rất hay, nhưng khi chuyển qua thời bình lại không chuyển mình kịp. Và mất tăm! Phải chăng đó là bi kịch của một thế hệ nhà văn Việt Nam?
Trung Trung Đỉnh: Chuyện đó có đấy! Nhưng không phải tất cả. Chỉ một vài trường hợp đơn lẻ thôi! Ví dụ như tôi, sau những năm 90, cuốn “Ngõ lỗ thủng” của tôi viết hoàn toàn về đời sống hiện đại. Cuốn “Góc tăm tối cuối cùng” của Khuất Quang Thuỵ cũng vậy. Tất nhiên nó vẫn có hơi hướng của chiến tranh. Bên cạnh đó vẫn có một số tác giả không thoát được cuộc chiến. Có thể họ vẫn viết được về thế hệ mới hôm nay, nhưng thế nào cũng có hơi hướng của chiến tranh trong đó. Sẽ là bi kịch khi viết những cái ngoài khả năng của mình. Đến bây giờ, tôi viết cái gì cũng xuất phát từ thực tế đời sống xã hội mà tôi được chứng kiến. Chiến tranh cũng vậy thôi! Như ông Lê Lựu, ông ấy gia nhập vào đời sống xã hội sau chiến tranh rất nhanh, nhưng tất cả những tác phẩm của ông ấy vẫn mang âm hưởng của cuộc chiến.
Yên Ba: Anh thử đánh giá một cách khái quát 3 cuốn sách đã viết của mình trước cuốn “Lạc rừng” là “Ngõ lỗ thủng”, “Ngược chiều cái chết” và “Tiễn biệt những ngày buồn”?
Trung Trung Đỉnh: Ba cuốn đó viết theo 3 kiểu bút pháp khác nhau. “Ngược chiều cái chết” mang âm hưởng của chiến tranh ở Tây Nguyên. Hai cuốn kia viết về đời sống đương đại những năm đó. Tôi ý thức được sự thay đổi bút pháp trong 3 tác phẩm. Cuốn “Tiễn biệt những ngày buồn” là cuốn viết kỹ lưỡng, theo lối cổ điển. Các nhân vật có thân phận rõ ràng và đều được thể hiện một cách có chủ đích. Đến khi tôi viết cuốn “Ngõ lỗ thủng” là một sự bứt phá hoàn toàn, vượt qua sự ảnh hưởng của 2 cuốn kia. Tôi đánh giá 2 cuốn viết về đời sống đương đại của mình cao hơn hai cuốn viết về chiến tranh. Các tác phẩm luôn thể hiện cái tâm thế của mình. Kinh nghiệm cuộc sống rất đáng quý, nhưng đôi khi nó cũng rất có hại cho quá trình sáng tác. Với tôi, nếu viết hoàn toàn thời bình cũng không được, mà hoàn toàn về chiến tranh cũng không ổn.
Yên Ba: Anh đã viết “Lạc rừng” sau khi viết “Ngõ lỗ thủng”, “Tiễn biệt những ngày buồn”. Phải chăng khi đã quay về với cuộc sống phố phường rồi, anh vẫn còn bỡ ngỡ, thấy mình lạc lõng, nên anh lại quay về với rừng núi, trở về với địa hạt chiến tranh quen thuộc của mình?
Trung Trung Đỉnh: Đúng vậy! Đôi khi muốn thoát ra khỏi điều đó nhưng không được. Về phố rồi mà tôi vẫn cảm thấy mình bị lạc ở đâu đó, nhiều khi không hiểu ra làm sao cả. Cả một thế hệ chúng tôi, hầu hết đều như vậy. Cái ký ức đó sâu nặng quá, và nó luôn ám ảnh tất cả.
Yên Ba: Sau hai tác phẩm về đời sống đương đại là “Ngõ lỗ thủng” và “Tiễn biệt những ngày buồn”, anh đã quay lại địa hạt quen thuộc của mình và ngay lập tức thành công với “Lạc rừng” được trao giải thưởng. Trong khi hai cuốn kia anh đánh giá cao nhưng lại không gây tiếng vang được như “Lạc rừng”…
Trung Trung Đỉnh: Đúng như vậy. Có lẽ tôi thích hợp với ký ức và hồi tưởng. Thú thực là trong đời tôi cho đến nay, chủ yếu chỉ có hai giấc mơ. Thứ nhất là mơ về thời thơ ấu cực đẹp. Hồi nhỏ tôi sống ở quê. Đó là thời điểm sau 1954, hoà bình lập lại. Bố tôi là một ông đồ nho và vẽ tranh dân gian. Ngày đó tôi được sống trong một không gian trong lành vô cùng, và trong một môi trường rộng mở, tươi sáng. Tôi thường mơ thấy mình còn nhỏ đi chơi đánh đáo, đánh khăng, bơi lội, thả diều… Thứ hai là những giấc mơ về chiến tranh, về các trận đánh du kích, chạy tung hà-bằn (theo cách nói của chúng tôi, nghĩa là tung váy!). Về việc chạy bom, chạy pháo và kinh khủng hơn là chạy máy bay quạt. (Đó là loại máy bay trực thăng nhỏ, cánh quạt của nó quạt xé rừng!)…Tôi đang viết một cuốn tiểu thuyết về chiến tranh và một cuốn về tuổi thơ của mình. Đây là hai cuốn mà tôi đã “nhay” hàng chục năm nay rồi, vậy mà chưa biết đến bao giờ xong. Tôi viết chậm lắm. Thôi thì cứ “khoe” ra đây, có khi lại có thêm động lực để viết.
Lớp trẻ bây giờ “phát tiết” sớm quá
Yên Ba: Hình như anh vẫn luôn “ngơ ngác” trong đời sống văn học hiện nay? Anh có thể nói cách nhìn của Trung Trung Đỉnh đối với đời sống văn học hiện nay như thế nào?
Trung Trung Đỉnh: Nói về hiện trạng văn học Việt Nam hiện nay, tôi nghĩ rằng phải nói về lớp trẻ. Mà nói về lớp trẻ hoàn toàn sau cuộc chiến thì phải nói thật là họ sớm “phát tiết” quá! Tôi đọc Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Việt Hà, rồi những người được xem là gối giữa lớp nhà văn chiến tranh và lớp nhà văn trẻ như Y Ban, Tạ Duy Anh… Họ xuất hiện lúc đầu rất hay. Như Vàng Anh chẳng hạn. Cô ấy xuất hiện với một giọng hết sức đặc biệt. Để duy trì được cái giọng văn đó thì quá tốt, nhưng rồi cô ấy sớm lao vào đời sống báo chí quá, nên cũng hơi uổng. Anh để ý mà xem, lớp trẻ sau này, một loạt viết theo kiểu văn của Vàng Anh cả. Không thoát được. Nhà văn mà có được cái trường ảnh hưởng đó là rất mạnh và đáng quý. Nguyễn Huy Thiệp cũng như vậy. Tức là rất nhiều nhà văn chịu ảnh hưởng của họ.
Nhìn chung, lớp trẻ bây giờ rất nôn nóng trong việc thể hiện mình. Cái đó thì cũng không thể trách họ được. Vừa xuất hiện, được một giải thưởng nào đó, thế là có toà báo nhận ngay về làm việc. Cái đó cũng là cái may mắn, nhưng cũng là cái chưa chắc đã may mắn (đối với một nhà văn tương lai). Nói thế thôi nhưng có hôm ngồi với Bảo Ninh tôi đã từng nói: thế nào rồi cũng sẽ có những nhà văn tầm cỡ xuất hiện! Nhưng mà không phải từ trong đám được các giải thưởng đâu. Đoạt giải chỉ có tác dụng trước mắt là kiếm được công ăn việc làm ngay thôi, nhưng để tiếp tục theo đuổi phát triển nghề viết văn của mình thì không mấy người làm được. Đời sống báo chí, thực tế cuộc sống thị trường nó cuốn đi, không kịp cho anh đủ nhìn nhận mọi điều thì làm sao viết hay được. Nhưng xét cho cùng, nếu người đó có tài thực sự thì sẽ vượt qua, tiếp tục khẳng định mình…
Yên Ba: Tóm lại, theo anh lớp nhà văn trẻ bây giờ chưa đủ nội lực để vượt qua sự ảnh hưởng của các thế hệ trước; chưa vượt qua được những tác động nhiều phía của các phương tiện thông tin đại chúng; chưa khước từ được nhu cầu về công ăn việc làm…Chính vì vậy họ không tạo nên những dấu ấn sâu nặng trên văn đàn hiện nay…
Trung Trung Đỉnh: Đúng vậy! Chưa đâu. Nhưng mà sẽ có. Không thể nôn nóng được. Điểm xuất phat của lớp trẻ bây giờ hơn chúng tôi rất nhiều.
Yên Ba: Vậy anh đánh giá những nhà văn thế hệ của anh, những người đã giữ thẻ Hội viên Hội nhà văn Việt Nam nhiều chục năm nay như thế nào?
Trung Trung Đỉnh: Tôi nghĩ dứt khoát trong lớp chúng tôi vẫn còn tiềm ẩn nhiều tác phẩm đáng kể đấy! Hạn chế nhất của lớp này là đã từng có những cái gọi là thành công. Thực ra bất cứ tác giả nào cũng có những bước thành công nhất định, có độc giả hay vài giải thưởng nào đó. Nhưng ở thế hệ tôi, tôi cho rằng, chỉ có “Thời xa vắng” của Lê Lựu và “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh là thành công hơn cả. Có thể gọi là đỉnh cao mỹ mãn trong những thời điểm ấy và còn sống được trong nhiều năm sau! Rõ ràng là như vậy. Vẫn chưa có tác phẩm nào vượt qua được hai cuốn đó. Tôi nghĩ, sự tiềm ẩn những tác phẩm tương tự ở thế hệ nhà văn chúng tôi vẫn còn.Còn bây giờ, thì cũng bình bình thôi.
Yên Ba: Liệu chúng ta có thể có những tác phẩm kiểu như “Sông Đông êm đềm” hoặc “Con đường đau khổ” không?
Trung Trung Đỉnh: Không thể có được. Việt Nam chúng ta không có cái kiểu tư duy đồ sộ, hoành tráng như thế. Người Việt Nam chỉ tư duy tiểu nông thôi. Luôn suy nghĩ những điều vụn vặt, nho nhỏ, xinh xinh, thì làm sao có được những cái lớn. Nếu cứ kỳ vọng như thế là rất nguy hiểm. Cái đó không bao giờ có được. Đã có nhiều nhà văn cho ra đời nhiều bộ tiểu thuyết dày hàng nghìn trang, nhưng tuyền là kể với tả, chẳng có tư tưởng gì mới, thành thử, lấy độ dày mà tính thì có nhưng không có tác phẩm lớn. Con cháu mình cũng vậy. Điều đó nó thuộc vào tính cách văn hoá của dân tộc rồi!
Yên Ba: Nhưng dù sao cũng có những tác phẩm như “Thời xa vắng” và “Nỗi buồn chiến tranh” mà anh đánh giá là đỉnh cao trong một thời kỳ văn học ở nước ta. Anh có thể lý giải điều gì đã khiến những tác phẩm như thế có thể ra đời?
Trung Trung Đỉnh: Khi Lê Lựu viết “Thời xa vắng”, ông ấy đã được chuẩn bị rất kỹ lưỡng. Lê Lựu vốn là nhà văn viết không có sự chuẩn bị về đề cương hay là viết theo kế hoạch nào đó. Nhưng ở cuốn này ông đã làm việc kỹ lưỡng, bởi cuộc sống đã tạo nên như thế, chính cái số lam lũ nhuôm nhoam, cái tính cách quê mùa bẩm sinh của ông ấy đã chuẩn bị cho nhà văn Lê Lựu rất nhiều. Nếu không có sự chuẩn bị thì ông ta không viết được như vậy. Bảo Ninh cũng thế.
Tôi chơi với cả hai người này nên tôi biết. Họ đã dồn hết tâm lực vào tác phẩm của mình, ngay từ khi mới bắt đầu viết. Cả hai đều có những bước ngoặt lớn về đời sống cá nhân sau thời kỳ chiến tranh. Cả hai đều viết trong một tâm thế nhìn nhận lại mọi điều, chứ họ không có ý viết để tranh giải thưởng gì cả. Bối cảnh xã hội bắt đầu đổi mới lúc đó cũng giúp cho việc ra đời hai cuốn sách ấy!
Chúng ta quá lệ thuộc vào hiện thực
Yên Ba: Xét về con người văn học, hình như anh và rất nhiều người cùng trang lứa vẫn chưa thích hợp với cuộc sống thời bình lắm? Hiện thực thời bình các anh chưa nắm bắt được?
Trung Trung Đỉnh: Tôi cho là thế này: chúng ta cứ ca ngợi chủ nghĩa hiện thực nhưng phải nói thực, tính sổ một cách rốt ráo thì đó lại là một cản trở lớn đối với nhà văn thuộc thế hệ chúng tôi. Tức là anh không thoát khỏi được đời sống hiện thực, mà nhu cầu của văn học không chỉ chừng đó; nó có những đòi hỏi cao hơn. Tức là lệ thuộc quá nhiều vào quá khứ và hiện tại, vào quan niệm cũ, cho rằng hiện thực phong phú, nhà văn chỉ cần chép trung thực là đủ hay rồi. Tuy nhiên, cũng có người ý thức được điều đó và bứt phá ra. Nhưng ít lắm.
Hầu như ai cũng bị trói buộc bởi hiện thực. Ngay cả cái gọi là bút pháp và kỹ thuật viết cũng thế. Chúng ta không nói đến hình thức, bởi phương Tây nó đi trước chúng ta rất nhiều trong vấn đề thể hiện cũng như nghiên cứu các loại hình thức. Bây giờ mà còn đi tìm hình thức nữa thì chết! Nhưng mà cũng không thể theo đuôi. Ông Nguyễn Minh Châu có một câu rất hay mà tôi luôn nằm lòng: “Đi đến tận cùng cái cá nhân của anh, anh sẽ gặp Nhân Loại”! Mà Nhân Loại đây là Con Người! Nếu anh đi lạc ra khỏi bản thân anh, tức thì anh không còn là anh nữa, và sẽ chẳng ai thiết để ý đến anh! Anh mà bị lệ thuộc vào cái khung hiện thực đã có từ trước hoặc là đang có, thì cái tôi của anh chỉ là con ngựa thồ, thồ món hàng tư tưởng cũ mòn của người khác mà thôi. Cái tôi nói ở đây là chủ nghĩa hiện thực nói chung.
Tôi ý thức rất sớm rằng: chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa cũng là chủ nghĩa hiện thực và nó có giá trị thiết thực ở giai đoạn đó. Nó phù hợp với tình hình chiến tranh, tình hình chính trị lúc bấy giờ. Nó cũng có những tác giả lớn, M.Gorki chẳng hạn. Chủ nghĩa hiện sinh trong văn học phương Tây cũng vậy thôi. Nó có thời của nó, và nó đã hết thời rồi! Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ La-tinh cũng có sức hấp dẫn ghê gớm. Nó có những cây đại thụ như G.Mấckét chẳng hạn. Nếu bây giờ anh theo một trường phái hay chủ nghĩa nào đó, thì anh sẽ bị lệ thuộc vào nó, và bị nó trói rồi lôi anh đi, để lại đằng sau anh là dân tộc và ngàn năm văn hiến! Tôi nghĩ, cần phải thoát ra khỏi những cái đó thì mới có thể có những thành công và đóng góp mới cho văn học nhân loại được.
Yên Ba: Vẫn có những tác giả, như Nguyễn Bình Phương chẳng hạn, đã cố gắng vượt qua cái rào cản hiện thực như anh nói đấy chứ…
Trung Trung Đỉnh: Tôi đánh giá cao sự tìm tòi cũng như cách đổi mới trong các tác phẩm của Nguyễn Bình Phương. Đúng là anh Phương đã có những bước cố gắng vượt ra khỏi sự lệ thuộc vào cái khung hiện thực, nhưng có vẻ như nội lực của anh còn yếu nên những tác phẩm của anh chưa thật thoát ra khỏi xiềng xích của những tác phẩm và tác giả lớn. Kiểu như vượt qua được đối phương trên đường đua ở một khoảnh khắc nào đó rồi, nhưng vì tay cương còn non nên không điểu khiển nổi con ngựa như ý muốn được.
Những tác phẩm của Nguyễn Bình Phương không tạo ra một dấu ấn rõ ràng trên văn đàn. Không như Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh.Tôi xem đó là một kiệt tác của văn học Việt Nam đương đại. Bảo Ninh đã vượt qua được mọi rào cản và có một tác phẩm xuất sắc. Nếu như Nguyễn Bình Phương cố gắng để vượt qua những điều đó, ra sức phấn đấu để vươn lên như ta vẫn quen nói, thì ngược lại, Bảo Ninh không cố gắng chút nào. Tất cả như đã được nung nấu từ lâu và đến lúc đó, nó trào ra một cách tự nhiên. Để có được điều đó, cần có một bề dày về văn hoá. Đừng tưởng là tự nhiên trên trời rơi xuống cho. Và cũng không nên nghĩ cố gắng phấn đấu mà thành!
Trường hợp Bảo Ninh rất đặc biệt là người khen, cũng như người chê rất nhiều, và khen chê luôn đối lập nhau. Hình như đều xuất phát từ quan điểm chính trị thì phải. Nhưng xét về khía cạnh tác phẩm văn học, nếu có một chút cởi mở thì anh nhận ra những giá trị to lớn của nó ngay. Bảo Ninh về tâm địa mà nói, anh ấy là người rất vô tư, hồn nhiên, cả tin, cả nể, nhưng lại rất thính nhạy. Anh ấy trong đời sống thấy cứ ù ờ thế thôi, nhưng chỉ cần thoáng qua một cái là không lọt qua con mắt tinh đời của Bảo Ninh ngay! Về kiến thức mà nói, anh ấy là người được chuẩn bị rất cơ bản, cả về văn hoá lẫn đời sống. Có lẽ vì thế mà anh ấy có nhiều ý tưởng rất sâu sắc. Theo tôi biết, hồi ấy nếu không phải ông Nguyên Ngọc làm Trưởng Ban giám khảo thì cuốn của Bảo Ninh cũng chưa chắc đã vào giải. Mà ông Nguyên Ngọc là người cực đoan, không phải vì thiên vị với Bảo Ninh mà chỉ thiên vị với …tài năng thôi!
Yên Ba: Anh có thấy buồn không, khi có một số tác phẩm có thể là hay nhưng vì nhiều lý do nào đó không đến được với bạn đọc?
Trung Trung Đỉnh: Tôi là người khá tỉnh táo khi nhìn nhận những vấn đề như vậy. Nếu tôi phát biểu không khéo lại cho tôi quan điểm lập trường không đúng. Trong văn học có những người viết về ánh sáng và ca ngợi, nhưng cũng có cả những người viết về mảng bóng tối và phê phán. Đã văn học là phải chấp nhận cả ánh sáng và bóng tối. Chứ nếu quy theo quan điểm lập trường thì rất khó nói chuyện với nhau. Có hiện tượng như thế và ta chấp nhận nó. Ở góc độ nào đó thì cũng buồn thật. Buồn chứ! Khi có một cuốn sách theo mình là hay, có giá trị mà lại không được phổ biến, độc giả không được tiếp cận, thì làm sao mà không buồn được. Giận nữa chứ! Tôi nhớ có lần, chính Lê Lựu phát biểu trên báo Thể thao & Văn hóa, đại ý: trong xã hội hiện nay, ông ấy sợ nhất là loại độc giả, đọc xong tác phẩm rồi cứ soi mói, quy chụp người khác.
Sợ nhất là những người đó. Nó nguy hiểm lắm, nhưng theo tôi, biết là như vậy, nhưng nhà văn phải chấp nhận thôi. Bởi vì anh không thể làm gì khác được. Quan niệm văn học của tôi, trước sau gì cũng là nói về thân phận con người. Có cả những thân phận tốt, rồi thân phận xấu, có cả sự chuyển biến, thay đổi thế giới quan của các thân phận nữa. Cứ nói đến thân phận con người, nhiều người cứ sợ, cho là thế này thế khác. Nhưng mà ai chẳng có thân phận của mình.
Yên Ba: Tức là đời sống của từng cá nhân. Nó có nhiều mặt, cả trái lẫn phải, chứ không thể quy chụp anh phải thế này, phải thế khác…
Trung Trung Đỉnh: Cái quan trọng nhất và cuối cùng là quan điểm sống, cách nhìn của anh (nhà văn) về thân phận con người thế nào. Điều đó nó thể hiện rõ trong tác phẩm của anh ta, thông qua các nhân vật. Nó hoàn toàn phụ thuộc vào “tâm địa” của nhà văn.
Nhà văn chỉ thể hiện mình qua tác phẩm mà thôi
Yên Ba: Theo tôi biết, anh tham gia khá đều các cuộc thảo luận bàn tròn trên báo chí về những vấn đề văn học. Qua những bàn tròn đó, anh có rút ra được điều gì bổ ích không?
Trung Trung Đỉnh: Sau một thời gian dài tham gia nhiều bàn tròn văn học trên một số tờ báo mà tôi cộng tác, tôi nhận thấy thực ra các nhà văn hoàn toàn thể hiện mình qua tác phẩm mà thôi. Chứ nếu qua phát biểu thì không thể hiện điều gì rõ ràng cả. Có tình trạng như thế này: nhiều nhà văn viết rất dở, nhưng lại trả lời phỏng vấn như một đại văn hào. Và ngược lại. Rút cục tất cả chỉ có thể kết luận qua văn bản tác phẩm mà thôi.
Yên Ba: Như vậy, sau những năm ở rừng về, anh có thấy mình vẫn đang bị lạc giữa đời sống văn chương không?
Trung Trung Đỉnh: Không! Tôi dám tự hào khẳng định tôi là loại nhà văn đi nhiều ở nước mình. Chỗ nào trên đất nước này cũng có dấu chân tôi cả. Ở đâu tôi cũng có bạn bè. Cả bạn văn chương lẫn không văn chương. Nói một cách hài hước thì nhiều năm qua, cuộc sống của tôi là du canh, du cư. Xét cho cùng thì cũng đúng là như vậy. Toàn bộ những cuộc đi ấy như một phần cuộc sống của tôi, là số phận của tôi.
Thực ra mà nói, về bản tính, tôi không thích đăng đàn. Chuyện tham gia các bàn tròn trên báo chí chủ yếu để kiếm chút đỉnh “lấy ngắn nuôi ngắn”mà thôi. Chứ nói tâm huyết với những cái đó, tôi muốn làm theo ý thích của mình cũng không làm được, bởi đó là báo của người ta mà. Trước sau tôi vẫn không thoát được cuộc chiến tranh. Viết cái gì rồi cũng quay về cái đó! Đó là nỗi ám ảnh lớn nhất trong đời tôi. Đó là toàn bộ tuổi trẻ của tôi! Kể ra như thế cũng thật đáng tiếc lắm thay. Nhưng có lẽ đó là số phận, không thể anh muốn thế nào cũng được.
Yên Ba: Cảm ơn anh về cuộc trao đổi này!
Nguồn: Viết & Đọc mùa thu 2021.