Nhà thơ Đoàn Xuân Hòa vừa qua đời tại Hà Nội ở tuổi 67. Ông là tác giả của các tập thơ “Lửa không cần trang phục”, “Phù sa lắng”... Như một nén nhang vĩnh biệt đồng nghiệp, xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Đặng Huy Giang.
LỬA KHÔNG CẦN TRANG PHỤC
ĐẶNG HUY GIANG
Do một sự ngẫu nhiên nào đấy
mà tôi và nhà thơ Đoàn Xuân Hòa có nhiều điểm gần gũi nhau: Cùng có thơ xuất
hiện trên Văn nghệ Quân đội vào năm 1978, cùng đoạt giải thơ của Báo Văn nghệ
năm 2000, cùng mệnh kim (sa trung kim), cùng là lính thời chống Mỹ…
Thêm nữa, có dạo, nhà anh và
nhà tôi ở cùng phố Giáp Bát, chỉ cách nhau vài trăm mét. Thêm nữa, cả hai chúng
tôi cùng say mê thi ca và hễ gặp nhau, là y như rằng chỉ chủ yếu trao đi đổi
lại về thơ. Với người đời, chuyện này có thể là chuyện rất viển vông, nhất là ở
cái thời buổi, sự mưu sinh trở nên riết róng và thực tế hơn bao giờ hết này,
đến nỗi có lần tôi phải thốt lên trong thơ: Mưu sinh thẫm đẫm/ Bao nhiêu
kiếp người. Nhưng đối với chúng tôi, lại khác. Hình như một sự đồng cảm,
một sự chia sẻ những giá trị tinh thần, bao giờ cũng thật có ý nghĩa và mang
giá trị cứu rỗi qua thơ của hai đứa tôi.
Do cùng nhập ngũ ở tuổi 18 và
do hơn tôi một tuổi nên đương nhiên anh đi B (chiến trường miền Nam) sớm hơn
tôi một năm. Về mặt thời gian, con số một năm, có thể chẳng là gì hoặc không có
nghĩa lý gì, nhưng nếu tính về mặt thời điểm (1972 với 1973), lại rất “là gì”.
Về điểm này, chỉ có những
người trong cuộc, lại là lính chiến thực sự, mới hiểu rõ và biết rõ. Sự “rất là
gì” này được quy định bởi độ khốc liệt của chiến trường và độ dày đặc của bom
đạn. Khi chưa có Hiệp định Paris (1972 và trước đó), Mỹ chưa rút khỏi miền Nam:
Khác. Khi đã có Hiệp định Paris (tháng 1 năm 1973 và sau đó), Mỹ đã rút khỏi
miền Nam: Khác. Chưa kể anh là lính Quảng Trị, trong khi tôi là lính miền Tây
Nam Bộ - một vùng chiến trường không mấy khốc liệt, đối với quân ta chủ yếu để
“duy trì lực lượng” là chính.
Anh bảo: “Những năm tháng ấy,
đối với tôi, thật gian lao và hạnh phúc. Bởi vì tôi là đứa con của Triệu Phong
(Quảng Trị), lại được sống và chiến đấu ngay trên quê hương mình. Bản thân tôi
cũng may mắn được gặp nhiều người thân trong một môi trường hết sức đặc biệt và
có nhiều kỷ niệm sâu sắc về họ”.
Sau 3 năm tại ngũ, đến năm
1975, Đoàn Xuân Hòa ra quân, quay về học Đại học Bách khoa. Những tưởng mọi sự
đã bình lặng, chẳng ngờ cuộc đời anh lại thêm một “khúc quanh” đầy thử thách
nữa. Đến năm 1979, khi có Chiến tranh Biên giới, Đoàn Xuân Hòa tái ngũ. Lần làm
lính thứ hai của anh kéo dài thêm 6 năm nữa. Đến năm 1985, anh ra quân khi đang
mang quân hàm Thượng úy.
Với Đoàn Xuân Hòa Sống sót
qua chiến tranh/ Với cha là đã lãi và anh không khỏi ngậm ngùi khi nhớ Bao
bạn bè nằm lại/ Thay cha làm cỏ xanh. Đó là 4 câu thơ được trích từ bài thơ
gan ruột “Nói với con về tổ ấm” của anh. Có lần anh rơm rớm nước mắt, đọc cho
tôi nghe bài thơ “Lời của một bà mẹ có con ra trận”: May quá/ Trận này, con
tôi không bị thương!/ May quá/ Trận này, con tôi bị thương nhưng không chết!/
May quá/ Trận này, con tôi bị chết nhưng mang được xác về!.
Với Đoàn Xuân Hòa, Quảng Trị
và đồng đội, chiến tranh và người lính luôn là một ký ức lớn. Và từ trong ký ức
lớn ấy, anh luôn nhìn nhận ra thân phận con người, cũng lớn không kém. Anh bảo:
“Tôi đã nhận thấy Mẹ Tổ quốc hiện thân cụ thể, sinh động qua một người đàn bà
và tôi đã triển khai tứ thơ “Người đàn bà đội nước”: Người đàn bà đội lên
đầu/ Những vò đất nung/ Vẹn nguyên hình hài nước/ Dọc miền Trung/ Áo đất vàng
cỏ cháy/ Tre trơ xương, vu vơ xỉa lên trời/ Lầu ông Hoàng/ Mộ đất xếp chơi
vơi…/ Gió liếm sạch những dấu chân trên cát/ Đi về đâu?/ Người đàn bà đội nước/
Lưng vồng lên đồng dạng với lưng đồi/ Chỉ còn pho tượng nhìn ta đau đáu/ Màu đỏ
cháy rựng đêm như máu/ Nhắc một thời binh đao/ Biển ngoài kia tấp sóng trắng
lên đầu. Bài thơ này, tôi viết năm 2000, sau khi chiến tranh đã đi qua
nhiều năm và là 1 trong 2 bài thơ đoạt giải B cuộc thi thơ 1998 – 2000 mang tên
“Chào thế kỷ 21” của Báo Văn nghệ. Đó cũng là nỗi ám ảnh lớn trong tôi”.
Có lẽ do lúc nào cũng mang
nặng nỗi ám ảnh lớn nên dù sống ở đâu, làm gì… Đoàn Xuân Hòa cũng đau đáu phận
người. Đó là thân phận của tình yêu trong “Đêm Mỵ Châu”: Đá mồ côi rụng
xuống biển Đông/ Thay đầu chị ngàn lần mang tội chết/ Tình yêu viển vông chị
đâu có biết/ Lông ngỗng trắng đường, tang tóc sau lưng.
Đó là thân phận của những cựu
chiến binh trong “Đồng đội tôi ra trận thời bình”: Ngày trở trời vết thương
cũ quặn đau/ Nhưng không thể đau bằng những đứa con nheo nhóc/ Tiền là đạn bắn
chỉ thiên cho các con ăn học/ Những giảng đường học phí tính bằng trâu. Đó
là thân phận của những em gái thời kinh tế thị trường trong “Em có về sông Hậu
hay thôi”: Chiều sông Tiền chưa lặng gió mưu sinh/ Lá vé số rải dày mặt đất/
Làm mát xa chuyển dịch nghề tầm quất/ Em nghĩ gì/ Mênh mang, mêng mang….
Từ năm 1985 cho đến lúc nghỉ
hưu, Đoàn Xuân Hòa chỉ gắn bó với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Cũng
bởi nguyên do ấy mà anh toàn tâm toàn ý và nặng lòng với nông nghiệp, nông
thôn, nông dân, với thân phận của người nông dân. Anh giải thích: “Nông nghiệp
là sinh kế, nông thôn là cội nguồn (địa bàn), nông dân là trung tâm (con
người).
Nhưng nông thôn bây giờ khác
xa nông thôn ngày xưa và đang mất dần bản sắc. Sinh thời, nhà thơ Thợ Rèn nói
rất đúng, rất trúng về nông thôn hiện nay qua 1 câu thơ: "Cả làng là một
cục xi măng". Có lần, bằng trải nghiệm của mình, anh “số hóa” nông thôn
cũng thật khác lạ: “Nông thôn bây giờ là 837016. 83 tức là mồng 8 tháng 3 (phụ
nữ). 70 tức là người già. Còn 16 tức là mồng 1 tháng 6 (trẻ em). Bây giờ mà ông
về nông thôn, hầu hết là gặp phụ nữ, người già và trẻ em. Ở thời chiến thì
không nói làm gì. Nhưng ở thời bình mà thế thì rất đáng nói và rất đáng suy
ngẫm lắm chứ”. Cũng vì sự toàn tâm, toàn ý và nặng lòng ấy mà có lần khi là học
viên của một lớp chính trị quân sự cao cấp, anh đã viết một khóa luận ở dạng
“thu hoạch” với chủ đề: “Thân phận nông dân và cuộc sống ở nông thôn”.
Xa xưa, cụ Trần Tế Xương từng
thương nhớ làng quê qua “Sông Lấp”: Sông kia rày đã nên đồng/ Chỗ làm nhà
cửa chỗ trồng ngô khoai/ Vẳng nghe tiếng ếch bên tai/ Giật mình còn tưởng tiếng
ai gọi đò và buồn bã trước cảnh nông thôn mới đô thị hóa gọi là.
Trong bài “Đất Vị Hoàng”, cụ
Trần Tế Xương than thở: Có đất nào như đất ấy không?/ Phố phường tiếp giáp
với bờ sông… Sau nhiều năm, “hậu bối” Đoàn Xuân Hòa còn thương nhớ và than
thở nhiều hơn. Chính vì thế mà anh luôn ước ao trong tâm thế: Khấn cùng trời
đất Ô Môn/ Ngàn năm hạt lúa vẫn còn thảo thơm (“Về một người anh hùng”).
Chính vì thế mà anh xa xót
trước cảnh những con bò Ngắm cỏ sân gôn ngỡ là cỏ thực/ Gió ngoại thành cứ
tưởng gió triền sông và anh không khỏi nhói lòng khi hạ bút dễ làm đau
trang giấy: Những con bò quay lưng về phía cánh đồng/ Nằm nhai lại ký ức
miền cỏ mật/ Mặc số phận ngày mai còn hay mất/ Tiếng gọi bầy ò ọ bước qua xuân
(“Ngoại thành”).
Chính vì thế mà anh lo cho cả
chợ tình ở thời hội nhập: Có vài người gạ gẫm song phương/ Đến phút chót đều
coi em là vợ/ Họ dắt tay em cùng đi vào chợ/ Chợ tình thời hội nhập đa biên”
(“Chợ tình thời hội nhập”). Chính vì thế mà anh lo cho “thời vô tính” và hậu
quả của nó.
Tôi tin đằng sau cái vỏ bọc hình
thức ngỡ như tưng tửng này là một nội dung sâu xa, buồn thăm thẳm: Thời vô
tính chắc là vui lắm nhỉ?/ Đời đua chen, đột biến không ngừng/ Thơ ngày ấy có
như gà cục tác/ Điện sáng lên là đẻ trứng tưng bừng/ Thời vô tính có còn lo
không nhỉ?/ Râu tóc rụng đi mai mọc ra người/ Nửa hóa họ hàng, nửa thành xa lạ/
Thật, giả nhìn nhau dở khóc dở cười (Thử hình dung)… Cũng giống như nhiều
nhà thơ khác, anh là người hoài cổ và tiếc những gì đã một đi không trở lại.
Tôi không nhớ lần đầu gặp
Đoàn Xuân Hòa vào thời điểm nào. Chỉ nhớ chúng tôi trở thành bạn của nhau là
qua thơ và bởi thơ. Anh là người nhiệt huyết trong đời và trong thơ. Anh là
người thẳng tính, chân thành đến gắt gao, đáng quý. Có cảm giác từ giọng nói
đến ánh mắt của anh, lúc nào cũng như có lửa.
Và nếu nói theo cách nói dân
gian một thời thì ở đời, người như anh dễ “thẳng thắn thật thà thường thua
thiệt” lắm. Nhưng anh không xem điều đó làm trọng. Anh thường nói: Bạn bè mới
quan trọng, còn chức tước không là gì, cho dù anh từng là Phó Cục trưởng Cục
Chế biến nông nghiệp và Ngành nghề nông thôn của một bộ lớn là Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn. Anh cũng nói thêm: “Tôi là người có thân xác Quảng Trị
(gốc gác) nhưng lại có hồn vía Nghệ An (nơi sinh ra và lớn lên)”.
Cách nay cũng đã lâu, nhà thơ
Đoàn Xuân Hòa đã xuất bản một tập thơ có một cái tên ấn tượng: “Lửa không cần
trang phục”. Đọc tập thơ này, người ta càng hiểu thêm con người nhà thơ Đoàn
Xuân Hòa và thêm một lần khẳng định: “Thơ là người”.
Với tôi, Đoàn Xuân Hòa cũng
chính là một thứ lửa như vậy và “chuẩn” đến mức không cần “chỉnh”.