Đặt câu hỏi: “Việt Nam là Nước thơ hay nước truyện?”, người viết bài này muốn nói chuyện văn chương nước mình, và đã hình dung trước cái tình thế đầy oái oăm phiền toái của một sự đi ngược nước. Là bởi, đáp án cho câu hỏi dường như đã có sẵn đấy lâu rồi, và được xác quyết như một điều thiên kinh địa nghĩa đến mức chẳng mấy ai buồn băn khoăn với chuyện nước thơ/ thi quốc hay nước truyện/ truyện quốc nữa.
NƯỚC THƠ HAY NƯỚC TRUYỆN?
HOÀI NAM
Việt Nam
đương nhiên là một thi quốc, người ta khẳng định như thế, và cái tính chất nước
thơ của nước Việt Nam hình như cũng khá dễ nhận biết. Nó thể hiện ở không khí
sôi sục người người làm thơ nhà nhà làm thơ và niềm sung sướng đến vô bờ của kẻ
làm thơ khi được mang danh thi sỹ. Nó thể hiện ở các kiểu các cấp câu lạc bộ
thơ ca, từ địa phương đến trung ương, đã và đang mọc ra như cỏ sau mưa. Nó thể
hiện ở kìn kìn các thể loại bản thảo thi tập đã và đang sốt ruột xếp hàng ở nhà
in. Nó còn thể hiện ở sự vượt trội của khối lượng (được gọi là) thi phẩm so với
khối lượng văn phẩm các loại vv và vv…
Thế nhưng,
dù sự thật rành rành là vậy, tôi vẫn bị hút về phía ý nghĩ: Việt Nam là một nước truyện hơn
là một nước thơ.
Là bởi,
theo cách phổ quát, nói Việt Nam là một nước thơ/ thi quốc, tức là nói trên
phương diện sáng tạo/ làm ra. Còn ở chiều ngược lại, tức phương diện tiếp nhận/
thưởng thức, Việt Nam ắt phải là một nước truyện, vì thực tế là chúng ta thích
nghe, thích đọc, và nhớ nhiều hơn lâu hơn nếu cái được nghe được đọc ấy có “chất
truyện”.
Hãy lấy
ngay một ví dụ: Truyện Kiều của Nguyễn Du, tác phẩm mà gần
một thế kỷ trước đã được ông chủ bút Nam Phong tạp chí xem là Phúc âm, là Thánh thư
của cả dân tộc Việt Nam. Về Truyện Kiều, ở đây xin được phép nói ngắn gọn rằng
đó là sự dịch chuyển từ một tác phẩm do người Trung Quốc viết - Kim Vân Kiều truyện của
Thanh Tâm Tài Nhân - sang một tác phẩm do người Việt Nam viết, từ một tiểu thuyết
chương hồi sang một truyện thơ Nôm theo thể lục bát. Dù có thay đổi thế nào đi
chăng nữa so với nguyên tác, bên trong cái lớp áo lục bát ấy, Truyện Kiều vẫn
nguyên vẹn là một trần thuật hư cấu, một chuyện kể về cuộc đời trầm luân của
người con gái tài sắc tên Vương Thúy Kiều, một chuyện kể khiến bao thế hệ người
đọc phải khóc phải cười theo mỗi biến cố, mỗi tình tiết của cốt truyện.
Nhìn từ lịch
sử của việc đọc Truyện Kiều ở Việt Nam, thậm chí có thể
nói rằng chúng ta chú ý đến “chất truyện” ở Truyện Kiều nhiều hơn là chú ý đến “chất
thơ”, tức thiên tài của Nguyễn Du trong việc tạo ra “độ khúc xạ” về mỹ học so với
nguyên tác. Chính vì thế, dù Nguyễn Du đặt tên cho tác phẩm của mình là Đoạn trường tân thanh (Tiếng
kêu đứt ruột mới) thì người đọc Việt Nam nói chung, cho đến bây giờ, vẫn cứ
quen gọi nó bằng cái tên Truyện Kiều. Một cách gọi tên đủ cho thấy
chúng ta thích truyện đến thế nào.
Và không chỉ
một Truyện Kiều. Toàn bộ hệ thống tác phẩm truyện thơ Nôm của văn
chương Việt Nam trung đại, cả truyện thơ tài tử - giai nhân (có tác giả) lẫn
truyện thơ bình dân (khuyết danh), đều được tiếp nhận chủ yếu theo phương thức
này. Người đọc thấy ở một truyện thơ Nôm bất kỳ câu chuyện về những con người với
những cuộc đời có thăng giáng, có sướng khổ, có tốt xấu; đường đời và kết cục của
những con người ấy phản ánh một xác tín đạo đức nào đó của xã hội đương thời, một
bài học nào đó về cách làm người mà ai nấy đều có thể và cần phải nhận biết.
Ngoài ra, câu chuyện có hấp dẫn được người đọc hay không phần lớn phụ thuộc vào
việc cốt truyện có nhiều tình tiết éo le, gay cấn, gây hồi hộp, và cách giải quyết
vấn đề có đúng như người đọc mong chờ hay không, chứ không mấy phụ thuộc vào
“nghệ thuật thơ ca” của tác phẩm. (Tôi muốn nhấn mạnh ngoài lề: nếu thừa nhận
thực tế tiếp nhận này, chúng ta sẽ không thấy khó hiểu cái việc người đọc của
thế kỷ XIX, và không chỉ của thế kỷ XIX, có thể mê mẩn với cả Truyện Kiều của
Nguyễn Du và Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, cho dẫu
“nghệ thuật thơ ca” ở hai tác phẩm truyện thơ Nôm có nhiều chỗ thể hiện khá rõ
sự vênh lệch).
Sau truyện
thơ Nôm của văn chương trung đại là truyện thơ quốc ngữ của văn chương cận đại,
thể loại mang hình thức lục bát, được sinh sôi và lan truyền đặc biệt mạnh mẽ ở
miền đất mới Nam Bộ. Người Nam Bộ gọi chúng là “thơ”, với các tác phẩm tiêu biểu
như Thơ Hai Miêng, Thơ Sáu Trọng, Thơ thầy thông Chánh vv… Nhưng thực tế thì chẳng mấy
ai quan tâm đến “chất thơ” ở các tác phẩm “thơ” này. Họ đọc chúng và truyền tai
nhau là bởi chúng kể rất sinh động những câu chuyện về xã hội đương thời, một
xã hội đang chuyển mình theo hướng đô thị hóa, tư sản hóa, sự phân tầng giàu
nghèo ngày một rõ nét, lối sống kiểu phương Tây bắt đầu được du nhập, những bất
công xã hội kiểu mới bắt đầu nảy sinh, những mẫu người “anh hùng của thời đại
chúng ta” cũng dần xuất hiện, cả trong đời thường và trong mơ ước của quần
chúng…
Nghĩa là,
nói tóm lại, cũng giống như với truyện thơ Nôm trước đó, truyện thơ quốc ngữ
khiến cho người đọc người nghe phải say mê chủ yếu bởi “chất truyện” của chúng,
còn “chất thơ”, nếu phải kể đến, có lẽ chỉ chiếm một phần rất khiêm tốn. Đến
đây ắt sẽ có nhiều người đặt câu hỏi: vậy thì, trong văn chương Việt Nam trung
cận đại kéo dài đến cả nghìn năm, phải chăng thơ chỉ có thế thôi, chỉ là những
truyện thơ Nôm và những truyện thơ quốc ngữ, những tác phẩm vốn có “vỏ thơ”
nhưng thực chất lại là “ruột truyện” và đã khiến cho đông đảo người đọc phải mê
mẩn bằng chính những cái “ruột truyện” này? Dĩ nhiên không phải thế.
Truyền thống
nghìn năm văn chương Việt Nam để lại nhiều thơ lắm, nhiều đến mức không đếm xuể
những thi tập của các tác giả nhà Nho. Nhưng họ làm thơ không phải để kể chuyện,
mà là để ký thác những tâm trạng cá nhân, tức những thứ quần chúng khó mà cảm,
mà chia sẻ cho được. Ấy là còn chưa kể họ viết bằng chữ Hán, một đánh đố thực sự
đối với đại đa số người đọc đương thời. Vậy nên, xác quyết “Việt Nam là một thi
quốc”, dù đã giới hạn “trong truyền thống”, liệu đã đáng tin?
Rồi kịp đến
khi người Việt Nam đã biết cách kể chuyện bằng những hình thức văn xuôi – tiểu
thuyết, truyện ngắn, ký. Dĩ nhiên là với văn tự quốc ngữ. Vì tác phẩm chữ Nôm
không có và tôi thì không tính chữ Hán, bởi tiểu thuyết, truyện ngắn và ký chữ
Hán trong văn chương Việt Nam chúng ta quá ít, không đủ… để gọi là biết – thì mảng
thơ có “chất truyện” vẫn giữ thế thượng phong trong lựa chọn của phần đông người
viết, và vẫn khiến cho phần đông người đọc phải yêu thích, nhớ lâu, nhớ dai.
Hãy lấy hú
họa vài ví dụ, bắt đầu từ Thơ Mới: Nhớ rừng của Thế Lữ, là lời con hổ kể
chuyện cuộc đời… lên voi xuống chó của mình, từ lúc còn tự do tung hoành giữa
chốn sơn lâm đến lúc phải chịu thân tù hãm, trở thành “trò lạ mắt, thứ đồ chơi”
trong vườn bách thú. Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp, là
“thiên ký sự của một cô bé ngày xưa” như chính tác giả tự tay ghi chú, một
thiên ký sự - tình - đầu gái quê, hồn nhiên và đẹp tựa như trong mộng. Lỡ bước sang ngang của Nguyễn Bính là lời phó thác cậy nhờ đẫm lệ của người
chị với đứa em trai vào đêm trước hôm về nhà chồng, qua đó trải ra cả một phận
gái bạc vì bao nỗi tức tưởi duyên tình. Lời kỹ nữ của Xuân Diệu họa lên một đêm
trăng trên sông lạnh, với người khách làng chơi chìm trong im lặng bí ẩn và người
kỹ nữ đang rạp hồn mình xuống để xin chút yêu thương bố thí…
Thơ thời
chống Pháp thì Màu tím hoa sim của Hữu Loan, thơ thời chống
Mỹ thì Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân - tôi vẫn nhặt
các ví dụ một cách hú họa - rồi rất nhiều, rất nhiều tác phẩm nữa của các đại
thụ thi ca như Tố Hữu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi… chính thực là những bài
thơ có “chất truyện”. Ở đây cần phải nói ngay: tôi quan niệm “chất truyện”
trong thơ không chỉ bó hẹp vào một cốt truyện hoặc một câu chuyện được kể lại bằng
hình thức thơ. Cốt truyện hoặc câu chuyện có thể rất chi tiết chặt chẽ, nhưng
cũng có thể rất mờ nhạt lỏng lẻo, thậm chí có thể chẳng có cốt truyện hay câu
chuyện nào hết. Nhưng điều quan trọng là có một hoặc nhiều nội dung trần thuật
được tác giả “tải” trong bài thơ bằng những câu, những đoạn có mối liên hệ
logic ngữ nghĩa, đủ sức diễn tả với người đọc về một sự việc, một ấn tượng, một
nhận thức, một cảm xúc hoặc một cảm giác nào đó.
Để cho rõ,
tôi sẽ thử lấy ví dụ bằng bài Buồn đêm mưa, một thi phẩm được khá nhiều người
yêu thích của Huy Cận: “Đêm mưa làm nhớ không
gian/ Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la/ Tai nương giọt nước mái nhà/ Nghe trời
nằng nặng, nghe ta buồn buồn/ Nghe đi rời rạc trong hồn/ Những chân xa vắng dặm
mòn lẻ loi/ Rơi rơi… dìu dịu rơi rơi/ Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ/ Tương
tư hướng lạc, phương mờ/ Trời nghiêng gối mộng, hững hờ nằm nghe/ Gió về, lòng
rộng không che/ Hơi may hiu hắt bốn bề tâm tư”… Thuộc vào số ít những bài thơ mơ hồ
bảng lảng nhất của thơ ca lãng mạn Việt Nam, nhưng Buồn đêm mưa không
hề đánh đố người đọc. Câu và chữ của nó, có thể nói, đã được tập trung toàn bộ
cho một nội dung trần thuật đọng lại trong ba từ khóa chỉ cảm giác: buồn, lạnh,
lẻ loi. Diễn đạt cách khác, bài thơ này đã hình thành từ nội dung trần thuật
này: nó diễn tả nỗi buồn, cái lạnh và sự lẻ loi của con người trong đêm nghe
mưa.
Tôi hiểu
“chất truyện” trong thơ là như thế. Và như thế, đồng nghĩa với việc coi tuyệt đại
đa số thơ ca Việt Nam là thơ có “chất truyện”, tức là loại thơ được làm từ “ý”
chứ không phải loại thơ được làm từ “chữ” (như quan niệm về thơ của thi hào
Pháp Stephane Mallarme). Vấn đề này có thể và cần phải được diễn giải chi tiết
hơn nữa, nhưng ở đây chỉ xin được nói ngắn gọn: nó, loại thơ có “chất truyện”,
“được làm từ ý” ấy hợp với nhu cầu về sự sáng rõ trong tiếp nhận (tôi nhấn mạnh)
của tuyệt đại đa số người đọc Việt Nam. (Luôn luôn có một câu hỏi được đặt ra:
Rốt cuộc thì bài thơ này nói gì?).
Đã có nhiều,
thậm chí rất nhiều giá trị thơ ca sáng giá được tạo ra từ loại thơ “dòng ý”
này. Nhưng cũng không thể chối bỏ được một sự thật rằng, sự thiên lệch quá mức
về phía thơ “dòng ý” như thế đã nhanh chóng làm tắc nghẽn, thậm chí bóp chết,
những khả năng sinh tồn khác của thơ Việt Nam, mà số phận lịch sử ngắn ngủi của
thơ “dòng chữ” - với đơn cử một đại diện là Xuân Thu nhã tập, khúc vỹ thanh của Thơ Mới - là một
minh chứng.