Những người cầm bút thuộc giới trẻ ngày nay có thể có người còn lạ với cái tên Nam Trân, nhưng từng có một thời tên tuổi nhà thơ của miền Trung này được đề cập khá nhiều trên thi đàn, đặc biệt là trên thi đàn của phong trào Thơ mới.
CÓ MỘT NHÀ THƠ NHƯ THẾ CỦA MIỀN TRUNG
NGÔ THÚY HẠNH
Sinh năm 1907 tại làng Phú Thứ Thượng (nay là xã Đại Quang, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam) nhà thơ Nam Trân có tên thật là Nguyễn Học Sỹ. Lúc nhỏ học chữ Hán nhưng sau đó lại theo Tây học (học tại trường Quốc học Huế, rồi trường Bưởi ở Hà Nội) và khi tốt nghiệp tú tài, Nam Trân được tuyển đi làm tham tá cho Tòa khâm sứ Huế, tiếp theo làm tá lý của Bộ Lại (tòng tam phẩm) rồi thị lang Bộ Lại (chánh tam phẩm), cuối cùng đảm nhiệm chức Án sát tỉnh Bình Định.
Là một vị quan triều đình nhà Nguyễn chịu ảnh hưởng không ít của Nho
học, nhưng trong sáng tác thơ ca, Nam Trân lại là người rất nhạy bén với cái mới
và ủng hộ phong trào Thơ mới. Trên tuần báo “Sông Hương” (số 2, ra ngày
8/8/1936), Nam Trân đã có bài thơ “Bỏ
quách lối thơ xưa”, một bài thơ đã thể hiện rất rõ quan niệm của
ông về thơ trước đòi hỏi phát triển của thời đại. Ở đó, ông kêu gọi “Bỏ quách lối thơ xưa/Vì nó chẳng hợp thời/Luật
Đường xin gói lại/Đem trả chú con Trời”. Bài thơ không chỉ tỏ ý phê phán sự gò
bó từ nguồn cảm xúc, thể thơ, ngôn ngữ, vần, luật đến hệ thống chủ đề, nội dung
hiện thực, điển tích, điển cố… của các thể thơ Trung Quốc, mà còn khẳng định sức
sống của quốc văn và thơ mới:
Ở thế giới cạnh tranh
Quốc văn cần giải phóng
Khuôn khổ, vứt đi thôi!
Hoạt động giành lấy sống
Chữ ít ý tứ nhiều
Nhạc luật tùy tác giả
Người hát cũng như chim
Lắm điệu hay và lạ
Hướng
về thơ mới, đề cao thơ mới và khai thác những nét mới, nên ngay từ khi có thơ
đăng trên các báo và tạp chí như: “Nam phong tạp chí”, “Văn học tạp chí”,
“Tràng An”, “Sông Hương”, “Phong hóa”, “Tân tiến”… Nam Trân đã được giới cầm
bút và độc giả đánh giá khá cao. Đặc biệt, vào năm 1939, tập thơ “Huế, Đẹp và Thơ” của ông do Nhà xuất
bản Trung Bắc Tân văn xuất bản và phát hành đã đưa ông lên một vị thế mới của
thi đàn Việt Nam lúc bấy giờ. Nhà văn, nhà thơ Phan Khôi khi đề cập tới bốn
bài thơ “Trước chùa Thiên Mụ”, “Huế,
mưa dầm”, “Huế, mùa hạ”, “Huế, mùa hạ II”), đã khẳng định:
“Tôi dám chắc bạn đọc khi vồ lấy bốn bài nầy ở đây được rồi, cứ ngâm đi ngâm lại
mà không thấy chán. Liền đó, bạn phải nhận cho tác giả của nó là một thi nhân số
một, số hai ở hiện thời, liệt vào với Thế Lữ, Huy Thông, Lưu Trọng Lư, không đến
làm cho mình phải thẹn, vẫn biết rằng tài điệu riêng mỗi người mỗi lối, cảm hứng
mỗi người đi mỗi đường...”.
Còn Hoài Thanh, Hoài Chân, trong công trình nghiên cứu
nổi tiếng của mình “Thi nhân Việt Nam
1932-1941”, khi chọn 46 nhà thơ và tuyển 169 bài thơ để giới thiệu
thì Nam Trân đã được chọn 7 bài. (Số lượng này bằng với Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, và
chỉ sau Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Quách Tấn, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu).
Không chỉ giới thiệu nhiều bài thơ, trong lời bình, Hoài Thanh cũng đã dành cho
Nam Trân những lời nhận xét rất trận trọng, trong đó có đoạn: “Lối thơ tả chân
vốn xưa ta không có. Đây đó rải rác cũng nhặt được đôi câu, nhưng đến Nam Trân
mới biến thành một lối… Tả cảnh Huế chưa ai bằng Nam Trân… Thiết tưởng vì tình
láng giềng đất Quảng Nam không thể gửi ra xứ Huế món quà nào quý hơn nữa: lần
thứ nhất những vẻ đẹp xứ này được diễn ra thơ”.
Nam
Trân làm thơ không nhiều,“Huế, Đẹp và Thơ” là
tập thơ duy nhất do ông sáng tác được xuất bản. Sở dĩ, Hoài Thanh khen “Tả cảnh
Huế chưa ai bằng Nam Trân” là do trong toàn bộ tập thơ của mình, gồm 37 bài,
Nam Trân đã có khá nhiều bài viết về Huế với một giọng điệu rất riêng. Không ít
nhà thơ cùng thời viết về Huế, song phần nhiều đều khai thác vẻ trầm mặc của
kinh thành cùng những u hoài hay bày tỏ nỗi cô đơn hoặc lãng mạn giữa xứ sở mộng
mơ, thì thơ của Nam Trân viết về vùng đất này, mỗi nơi, mỗi cảnh là một bức
tranh sinh động hòa quyện giữa cảnh đẹp thiên nhiên với nếp sống, nếp sinh hoạt
của người dân. Đó là mùa đông về trên cánh đồng An Cựu, với những câu thơ ngắn,
tựa như vài nét chấm phá ban đầu của một bức ký họa nhưng vô cùng ấn tượng:
Lá bàng
Như lá vàng
Rụng
Ôi! đìu hiu
Cánh đồng
Cảnh chiều
Đông!
Ruộng ngập mênh mông
Nước phẳng
Cò bay, yên lặng
Quanh đồng…
(Mùa
đông cánh đồng An Cựu)
Còn
đây, một đêm hè của Huế được Nam Trân miêu tả bằng những ngôn từ dung dị nhưng
thật sinh động qua bài thơ “Huế, đêm hè”. Đọc
bài thơ ta có cảm giác như tác giả đang sử dụng chiếc máy quay, quay từ xa để
giới thiệu toàn cảnh “Trời nóng băm bốn độ/Đèn, sao khắp đế đô/Mặt trăng vàng,
trỏn trẻn/Nấp sau nhánh phượng khô/Ba nhịp cầu Tràng Tiền/Đứng dày người hóng
mát/Ngọn gió Thuận An lên/Áo quần kêu sột sạt/Đủng đỉnh chiếc thuyền nan/Qua, lại
bến sông Hương/Tiếng đờn chen tiếng hát/Thánh thót điệu Nam Bường”, và cuối
cùng là một cận cảnh đầy thú vị:
Hai tay xách hai vịm
Một vài mụ le te,
Tiếng non rao lảnh lói:
Chốc chốc: “Ai ăn chè? ”
Viết
về Huế, thơ Nam Trân đề cập đến nhiều địa danh, mỗi địa danh là một bức tranh.
Đó là “Trên núi Ngự Bình/Gió chiều hiu hắt/Nhạc thông díu dắt/Như khúc phong cầm/Cô
em vừa tuổi cài trâm /Nẻo sim lững thững đi tìm xác hoa/ Ngây thơ đâu nữa
mà vờ!” (Trên núi Ngự) ; là chùa Diệu Đế với “Theo trăng bóng vạc về
rừng/Sương thu phủ kín mấy từng thành xưa/Bến sông thuyền ngủ lưa thưa/Tiếng
chuông Diệu Đế gió đưa lại gần” (Tiếng chuông Diệu Đế); là chùa Thiên Mụ với
“Êm êm giòng nước Hương Giang chảy/Xúm xít thuyền con chỗ ba, bảy/Tiếng
hát ngư ông đẫm bóng cây/Như luồng khói nhẹ, lên, lên mãi/Đồi thấp sừng trăng
dõi dõi soi/Mờ ớ xa xa trời gáy sáng/Trong chùa cảnh cảnh tiếng chuông hồi”
(Trước chùa Thiên Mụ)…
Có
thể nói chất Huế trải dài, bàng bạc trong thơ Nam Trân và những cảnh ấy trong
thơ ông luôn ở trạng thái động. Chẳng hạn như trong bài thơ “Cô gái Kim Luông”, trạng thái ấy thể hiện
rất rõ :
Thuyền nan đủng đỉnh sau
hàng phượng
Cô gái Kim Luông yểu điệu
chèo
Tôi xuống thuyền cô, cô
chẳng biết
Rằng Thơ thấy Đẹp phải
tìm theo
Thuyền qua đến bến, cô
lui lại
Vẫy chiếc chèo ngang: giọt
nước gieo
Đăm đăm mắt mỏi vì chèo
Chèo cô quẩy nước trong
veo giữa dòng
Biết không? Cô hỡi, biết
không?
Chèo cô còn quẩy, sóng
lòng còn xao?
Cũng
cần nói thêm rằng, trong tập “Huế, Đẹp và
Thơ”, ngoài nội dung viết về Huế, còn có một số bài thơ đề cập đến
các đề tài khác như “Cảnh quê”, “Hà Nội mưa
phùn”, “Khóa xuân, “Hái hoa hồng”, “Gặp khách đong đưa”, “Eng”, “Sầm Sơn trường hận”… Song, dù viết
về đề tài nào, trạng thái động trong bút pháp của Nam Trân cũng luôn lấp lánh.
Bài “Nắng Thu” là một ví dụ. Ở
đó, khi đọc, ta có cảm giác như mình đang đứng trước cảnh của một làng quê đang
chuyển động khi chiều thu đang xuống :
Hát bài hát ngô nghê và
êm ái,
Bên sườn non, mục tử cỡi
trâu về,
Nắng chiều rây vàng bột
xuống dân quê,
Lúa chín đỏ theo gió nồm
sắp mái.
Trên suối nhỏ, chiếc cầu
treo hẻo lánh
Tốp người qua, lẩy bẩy vịn
thanh ngang
Lũ trẻ con sung sướng nổ
cười vang
Đùa với bóng chảy theo
giòng nước lạnh.
Dãy núi tím bỗng thay mầu
xanh ngắt
Rồi ố làn trong giây khắc
nhá nhem
Âm thầm cảnh vật vào Đêm:
Vết ráng đỏ, tiếng còi xa
cũng tắt
Sau
khi“Huế, Đẹp và Thơ” của Nam
Trân ra đời, nhà thơ Tản Đà đã viết bài khen ngợi, bên cạnh đó ông có chê một số
bài chưa chú trọng đến vần. Tuy nhiên, sự xuất hiện của tập thơ là một bước ngoặt,
khẳng định tên tuổi của Nam Trân trong lịch sử văn học nước nhà.
Sau Cách
mạng tháng Tám, Nam Trân tham gia kháng chiến chống Pháp và công tác ở Ủy
ban kháng chiến hành chính huyện Đại Lộc, sau đó ở Ủy ban kháng chiến hành
chính tỉnh Quảng Nam, rồi làm chánh văn phòng Ủy ban kháng chiến hành
chánh Liên khu V. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc và công tác ở Ban chấp
hành Hội Nhà văn Việt Nam. (Ông là một trong những hội viên sáng lập Hội
Nhà Văn Việt Nam và tại Hội nghị thành lập Hội Nhà văn Việt Nam 5/1957, ông được
bầu vào Ban Chấp hành cùng với những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng khác như Nông
Quốc Chấn, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Đình Thi, Tú Mỡ, Anh Thơ, Mộng Sơn, Cầm
Biêu, Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Huy Tưởng, Hoàng Cầm, Sao Mai, Tố Hữu, Hoàng
Tích Linh, Nguyên Hồng, Bửu Tiến, Xuân Diệu, Đoàn Giỏi, Phạm Huy Thông, Tế
Hanh, Vũ Tú Nam, Hoàng Trung Thông, Xuân Miễn, Tô Hoài, Nguyễn Tuân).
Đến
năm 1959, Nam Trân chuyển sang công tác tại Viện Văn học, chuyên về dịch
thuật. Với sự hiểu biết sâu rộng về Hán văn và văn hóa phương Đông, ông đã có
những đóng góp rất lớn trong việc dịch thơ chữ Hán ra thơ tiếng Việt, trong đó
có thơ của những nhà thơ nổi tiếng như Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên, Trần Tử
Ngang, Lạc Tân Vương, Vương Bột, Vương Xương Linh, Lý Ước, Vi Ứng Vật, Lưu Trường
Khanh, Vương Chi Hoán, Đỗ Phủ...
Đặc biệt, Nam Trân cũng là người được giao trách nhiệm
làm Trưởng tiểu ban dịch bổ sung “Nhật ký
trong tù” trong hai lần in (năm 1977 và 1990). Đồng thời, ông
cũng là một trong những người đầu tiên có công mở lớp và giảng dạy bộ môn Hán
Nôm ở bậc đại học tại miền Bắc nước ta, do Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam tổ
chức.
Nam
Trân mất vào tháng 12 năm 1967. Từ một vị quan của triều Nguyễn nhưng lại phê
phán lối thơ cũ, ủng hộ thơ mới và nổi tiếng với phong trào thơ mới, sau đó,
ông lại là người đi dịch thơ chữ Hán. Ông là một nghệ sĩ đa tài. Từ một nhà thơ
đến một nhà dịch thơ, ở lĩnh vực nào ông cũng để lại những dấu ấn.
Từng
có một nhà thơ như thế của miền Trung: Nam Trân!