Đang có sự xuống cấp trông thấy về thị hiếu thẩm mỹ của công chúng, và nếu những người sáng tác vì lợi nhuận mà chạy theo "phục vụ" thứ thị hiếu thẩm mỹ bị thoái hóa này, thì phía trước của đời sống văn học Việt Nam sẽ chỉ là một tương lai thoái hóa đang chờ sẵn.
VÌ MỘT XÃ HỘI ĐỌC LÀNH
MẠNH
HOÀI NAM
Chuyên khảo mới xuất bản gần đây của Tiến sỹ Vũ Thị
Thu Hà: "Thị hiếu thẩm mỹ công chúng văn học Việt Nam đương đại" (NXB
Văn học, 2021) là một công trình nghiên cứu về người đọc. Cụ thể là người đọc
như một ngôi trong cái tam vị "Tác giả - Tác phẩm - Người đọc", tạo
nên sự nhất thể khép kín và đầy đủ của một đời sống văn học.
Về cơ bản, mối quan hệ giữa tác giả và người đọc ở đây
được hình dung như là mối quan hệ giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Cái
khung cho sự hình dung này là "văn học Việt Nam đương đại", tức nền
văn học được hình thành dưới tác động mạnh mẽ, thậm chí mang tính quyết định, của
công cuộc đổi mới đất nước, với cái mốc khởi điểm là Đại hội VI năm 1986 của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Đổi mới, trong ý nghĩa cốt tử, nghĩa là xóa bỏ cơ chế
quản lý tập trung quan liêu bao cấp, thay thế bằng cơ chế thị trường có sự tham
gia của nhiều thành phần kinh tế. Chuyển biến xã hội to lớn ấy đã mang đến một
thay đổi quan trọng cho văn học Việt Nam: kể từ năm 1986, tác phẩm văn học, dưới
hình thức sách in và các hình thức khác, đã trở thành một loại "hàng hóa đặc
biệt" được lưu hành trên thị trường, và như mọi loại hàng hóa khác, nó
cũng phải chịu sự tác động lạnh lùng và khắc nghiệt của quy luật cung/ cầu.
Điều đó có nghĩa: tác giả viết, là phải căn cứ vào
"tầm đón đợi", vào nhu cầu đọc và thị hiếu thẩm mỹ của người đọc nói
chung, để sao cho tác phẩm của anh ta có được lượng phát hành lớn nhất, độ lan
tỏa và phổ biến rộng nhất, đạt mức lợi nhuận kinh tế cao nhất. Nói cách khác,
cái đọc của người đọc đã đặt điều kiện và quy định cho cái viết của tác giả. Về
đại thể, sự kiện ấy không khác là bao nếu so nó với ý muốn của người tiêu dùng
áp đặt trên công việc của người sản xuất.
Nhưng vấn đề rắc rối, mà tác giả đã nhận ra và nỗ lực
cắt nghĩa trong Phần 2 và Phần 3 của chuyên khảo, trước hết là: người đọc không
hề là một khối thuần nhất. Với những chuyển biến to lớn về mọi mặt của đời sống
xã hội Việt Nam kể từ năm 1986 đến nay, người đọc văn học đã được/ bị phân hóa
thành các nhóm công chúng rất đa dạng. Họ khác nhau về môi trường văn hóa - xã
hội. Họ khác nhau về tâm lý, lứa tuổi, nghề nghiệp. Họ khác nhau về sự ưu tiên
lựa chọn các phương thức để tiếp nhận, tiếp cận văn học. Họ khác nhau về hệ giá
trị được trang bị để có thể đánh giá, thẩm định các giá trị văn chương v.v...
Mỗi nhóm công chúng như vậy, về đại thể, có một thị hiếu
thẩm mỹ văn học riêng, một nhu cầu riêng về vài kiểu thể loại tác phẩm hoặc nội
dung đề tài yêu thích, và không nhóm nào giống nhóm nào. (Ở phương diện này, những
bảng biểu điều tra xã hội học về người đọc mà tác giả chuyên khảo và các cộng sự
của mình thực hiện có thể giúp ta tin vào những gì đã và đang xảy ra trong thực
tế). Có nhu cầu, thì sẽ có đáp ứng. Đội ngũ nhà văn Việt Nam nhiều thế hệ kể từ
năm 1986 đến nay có đủ lực lượng và sự nhanh nhạy để kịp thời tự phân hóa thành
các "nhóm tác giả" tương ứng với các "nhóm công chúng" nói
trên.
Nếu xét vấn đề sự phân hóa thị hiếu thẩm mỹ văn học
trong công chúng bằng một quan điểm "dân chủ hóa tuyệt đối" và tuyệt
đối "tôn trọng sự khác biệt", thì chẳng có gì phải bàn nữa: Nồi nào
úp vung nấy, rốt cuộc thì ai cũng tìm được đúng cái mình cần. Thế nhưng, thị hiếu
thẩm mỹ của người đọc thì có cái cao và có cái thấp, có cái lành mạnh tích cực
và có cái tiêu cực lệch lạc, có cái góp phần nâng trí tuệ và tình cảm con người
lên cao hơn và có cái chỉ nhấn con người chìm sâu hơn vào những bản năng tăm tối.
Tác phẩm văn học phục vụ cho thị hiếu thẩm mỹ, như một
kéo theo, cũng vậy. Nhưng điều oái oăm là, trên thực tế, cái vùng bóng tối kia
lại đang có dấu hiệu loang rộng ra, đẩy vùng ánh sáng vào những không gian hẹp
của sự đọc. Và thật đáng báo động khi, như tác giả chuyên khảo nhiều lần đề cập,
nó tạo ra một sự lộn sòng về "giá cả" và "giá trị", như một
hệ quả không mong muốn, như tác động nghịch chiều của kinh tế thị trường vào đời
sống viết và đọc văn học.
Chúng ta chứng kiến không ít lần cái sự thể là: Những
tác phẩm văn chương có nội dung tư tưởng tốt, có giá trị nghệ thuật cao, được
"người đọc đặc tuyển" đánh giá cao, được trao những giải thưởng uy
tín, thì lại ít được phổ biến trên thị trường. Còn những tác phẩm được truyền
thông tung hô là best-seller, được nhiều người truyền tay nhau đọc, giữ kỷ lục
về lượng xuất bản và lần tái bản, thì lại chỉ là sách nặng về tính giải trí, nhẹ
về những tìm tòi nghệ thuật và kết tinh tư tưởng, chưa kể còn độc hại, ấy thế
nhưng nhiều người lại coi đó mới là văn chương đích thực. Đây là biểu hiện của
tình trạng "loạn chuẩn", "lệch chuẩn", thậm chí "không
có chuẩn". Và rộng ra, như tác giả chuyên khảo nhấn mạnh, nó là triệu chứng
của một quá trình chuyển đổi hệ giá trị chưa ổn định, thậm chí vẫn đang còn nhiều
dang dở.
Có hai kết luận quan trọng có thể được rút ra từ
chuyên khảo "Thị hiếu thẩm mỹ công chúng văn học Việt Nam đương đại"
của Vũ Thị Thu Hà. Một là: Đang có sự phân hóa mạnh mẽ trong thị hiếu thẩm mỹ của
công chúng văn học Việt Nam đương đại. Hai là: Đang có sự xuống cấp trông thấy
về thị hiếu thẩm mỹ của công chúng, và nếu những người sáng tác vì lợi nhuận mà
chạy theo "phục vụ" thứ thị hiếu thẩm mỹ bị thoái hóa này, thì phía
trước của đời sống văn học Việt Nam sẽ chỉ là một tương lai thoái hóa đang chờ
sẵn. Lẽ dĩ nhiên, điều tra thực tế vốn không phải là cuộc chơi nhằm để thỏa mãn
thú phiêu lưu của tư duy tư biện, mà điều tra thực tế cốt là để đưa ra những giải
pháp mang tính khả thi. Ở trong trường hợp của chuyên khảo này, tôi xin được gọi
đó là những giải pháp "Vì một xã hội đọc lành mạnh".
Để thay lời kết về chuyên khảo của nhà nghiên cứu Vũ
Thị Thu Hà, tôi muốn đưa ra hai ý, vừa trông đợi sự trao đổi, vừa như những đề
mục để tự mình nghĩ thêm nữa về những vấn đề có liên quan.
Thứ nhất, tôi đồng quan điểm rằng để cải thiện, nâng
cao thị hiếu thẩm mỹ của người đọc, để hướng người đọc văn học nói chung tới những
chuẩn mực thẩm mỹ tích cực, qua đó góp phần tác động nâng cao chất lượng sáng
tác văn chương, thì giải pháp mang tính căn cốt, lâu bền nhất vẫn là cải thiện
chương trình giáo dục trong nhà trường các cấp, và vai trò quan trọng thuộc về
các thầy cô giáo. Nhưng cải thiện chương trình giáo dục như thế nào, các thầy
cô giáo có thể làm gì với việc đọc văn học của học sinh ngoài việc giảng dạy
các tác phẩm trong sách giáo khoa, thì là cả một vấn đề nan giải.
Trên thực tế, không ít thầy cô giáo cũng gần như không
đọc gì ngoài các tác phẩm mà họ phải dạy học sinh hết năm này sang năm khác. Họ
không cập nhật văn chương đương đại, trong nước cũng không chứ chưa nói nước
ngoài. Vì thế, họ không đưa ra được một gợi ý nào về một list các tác phẩm mà học
sinh nên tiếp cận để mở rộng sự đọc văn học của mình. Trong trường hợp ấy, phải
chăng nên làm theo lời khuyên của triết gia Mỹ thế kỷ XIX - Henry David
Thoreau: Hãy đọc đi đọc lại các tác phẩm cổ điển - với ông là các tác phẩm của
cổ Hy Lạp và cổ La Mã - vì chúng không bao giờ phản bội ta, hơn thế, chúng còn
cho ta những kinh nghiệm thẩm mỹ tuyệt vời để ta có thể dễ dàng tiếp nhận những
giá trị mới, hoặc ta từ chối nó mà không hề cảm thấy mình đã bỏ lỡ điều gì đáng
tiếc?
Thứ hai, tôi cũng đồng quan điểm rằng, quả thật, có hiện
tượng phổ biến là người đọc - với tất cả những đặc điểm sở thích hay khuynh hướng
trong thị hiếu thẩm mỹ của họ - luôn được các tác giả tính đến trước và trong
quá trình viết. Nhưng không nên vì thế mà chúng ta được phép quên sự tồn tại của
các "nền văn học thiểu số". (Hãy nhớ đến hai học giả Pháp Gilles
Deleuze và Felix Guattari khi họ viết chuyên luận "Kafka, vì một nền văn học
thiểu số").
Thực tế là, ở thời đại nào và trong bối cảnh xã hội nào
cũng vậy, vẫn cứ có những tác giả chỉ thuộc về một/ các "nền văn học thiểu
số". Ở chỗ: Họ không quan tâm đến cái gọi là sức hút thị trường hay sự tồn
tại của người đọc. Họ chỉ quan tâm đến chính mình và chỉ phục vụ chính nhu cầu
được viết của mình. Họ viết bằng một thứ "ngôn ngữ" khác, thứ ngôn ngữ
hoặc là giễu cợt, thách thức "ngôn ngữ" phổ biến đương thời, hoặc là
vượt rất xa khỏi nó. Họ quay lưng với thị trường và người đọc. Khi đó, thị trường
và người đọc, những thứ này tồn tại chỉ như điểm tham chiếu cho những cái tiên
phong (avant-garde) mang tính vượt ngưỡng mà thôi.
Nguồn: Văn Nghệ Công
An