Truyện ngắn “Người đàn bà quỳ” của Trần Khắc (một bút danh của nhà văn Lê Văn Ba) đã khắc họa nên hình ảnh không dễ quên của một thời mà văn học cũng như báo chí ở nước ta đã “Nhìn thẳng vào sự thật” như lời Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh.
DƯƠNG KỲ ANH
Biết tin nhà văn, nhà báo Lê Văn Ba, tác giả truyện
“Người đàn bà quỳ” nổi tiếng một thời vừa ra đi, đi về cõi vĩnh hằng, tôi lặng
người.
Nhiều bạn đọc hẳn còn nhớ truyện ngắn “Người đàn bà quỳ”
của Trần Khắc (một bút danh của nhà văn Lê Văn Ba) đã khắc họa nên hình ảnh
không dễ quên của một thời mà văn học cũng như báo chí ở nước ta đã “Nhìn thẳng
vào sự thật” như lời Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh.
Nhớ lần tôi đi dự Ngày Thơ Việt Nam, gặp nhà văn Lê
Văn Ba cùng vợ và con gái đầu, cháu Hà đang mải mê ngắm cảnh, đọc thơ trong
khuôn viên Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Thấy ông khỏe mạnh, nhanh nhẹn, tôi thật mừng.
Giờ nghỉ giải lao Đại hội Nhà văn Việt Nam lần trước,
nhà văn, nhà báo Lê Văn Ba mang đến tặng tôi cuốn “Nhà văn Việt Nam trong nhà
tù quân xâm lược” dày gần 1.500 trang. Tôi
thực sự ngạc nhiên. Một nhà văn ngoài 80 tuổi còn bỏ công sức sưu tầm và biên tập
được một cuốn sách như vậy quả là đáng nể.
Đọc bài viết của Trần Bảo Hưng và hồi ký của chính tác
giả in trong cuốn sách tôi biết thêm nhiều điều về nhà văn, nhà báo Lê Văn Ba,
người đã từng là sếp cũ của tôi trong nhiều năm.
Nhà báo, nhà văn Lê Văn Ba đã hoạt động trong Tổ chức
Thanh niên Hà Nội thời chống Pháp, có lần bị bắt, bị giam hơn một năm ở nhà tù
Hỏa Lò (Hà Nội). Ông đã có mấy cuốn sách viết về nhà tù như “Kể chuyện nhà tù Hỏa
Lò” (2004); “Thơ viết trong nhà tù Hỏa Lò” (2006); “Nhà tù Hỏa Lò, trường học
yêu nước và cách mạng” (2009).
Tôi đã từng nghe nói đến những tấm gương yêu nước của
các nhà văn, nhà thơ Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử chống ngoại xâm của
dân tộc. Nhưng khi đọc “Nhà văn Việt Nam trong nhà tù quân xâm lược” tôi mới biết
được cụ thể, biết được nhiều điều mà lâu nay tôi chưa thể hình dung. Việc tập hợp
được những tư liệu như vậy, nhất là việc lý giải được xuất xứ, lịch sử ra đời của
những tư liệu đó quả là đáng quý, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà văn
hóa đọc, khi mà lớp trẻ nhiều người còn có biểu hiện thờ ơ, thiếu hiểu biết cặn
kẽ lịch sử văn hóa cũng như lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.
Tôi thường ngâm ngợi câu thơ nổi tiếng của Đặng Dung:
“Nợ nước chưa xong đầu đã bạc/ Mấy độ mài gươm bóng nguyệt tà” mà nay mới biết
được xuất xứ của bài thơ “Cảm hoài” nổi tiếng nhờ đọc cuốn sách này. Cũng có người bảo tôi rằng, bây giờ muốn
tìm kiếm thông tin gì thì gõ vào Google là có hết. Tất nhiên, thời buổi hiện đại,
không chỉ tìm trong sách mà ta có thể tìm kiếm qua các trang mạng. Nhưng, không
hiểu sao tôi vẫn cho rằng những cuốn sách (tất nhiên là sách nghiêm chỉnh) là
nơi đáng tin cậy nhất.
Khi tôi làm cuốn “Những câu thơ hay Đông - Tây - Kim -
Cổ” (Nhà xuất bản Giáo dục, ấn hành năm 2013), tôi mới hiểu hết cái cực nhọc của
những người làm sách nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn mà trong những cuốn sách đó
có nhiều tác giả, ở nhiều nơi và nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau.
Cho nên tôi rất kính nể những nhà báo, nhà văn, nhà
thơ dày công tìm tòi. biên soạn những cuốn sách như vậy, như nhà văn, nhà báo
Lê Văn Ba đã làm.
Nhà văn, nhà báo Lê văn Ba đã từng bị thực dân Pháp bắt
đi tù khi ông còn hoạt động bí mật trong Tổ chức Đoàn Thanh niên Hà Nội. Bởi vậy,
khi bỏ công sức làm cuốn “Nhà văn Việt Nam trong nhà tù quân xâm lược”, hẳn ông
đã gửi nhiều tâm huyết vào đó. Hẳn ông rất thấu hiểu nổi khổ cũng như ý chí
kiên cường của người cầm bút trong cảnh tù đày thời thực dân phong kiến.
Nói đến nhà văn, nhà báo Lê Văn Ba, tôi lại nhớ về một
thời làm báo với nhiều kỷ niệm khó quên. Sau
khi tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Văn, tôi gia nhập quân đội và là sĩ quan điều
khiển tên lửa trong chiến tranh chống Mỹ. Năm 1975, sau ngày miền Nam được hoàn
toàn giải phóng, tôi chuyển về làm phóng viên Báo Tiền phong.
Hôm đầu tiên đến nhận việc, lãnh đạo báo phân công tôi
về làm ở Ban Công nghiệp. “Lên
gặp nhà báo Lê Văn Ba nhé, ông ấy là Trưởng ban của cậu” - người phụ trách tổ
chức của báo Tiền Phong lúc đó bảo tôi.
Tôi lên tầng ba để ra mắt người Trưởng ban mà tôi chưa
hề biết mặt. Nhưng, hôm ấy không gặp được ông. Mọi người bảo vợ ông vừa sinh
con trai, ông ấy đang ở nhà. Sau
này tôi mới biết, con trai ông, cháu Trần Toàn Thắng sinh đúng ngày tôi về nhận
việc ở Báo Tiền phong. Hôm sau gặp tôi, ông bảo: “Nhân dịp đại thắng mùa xuân
này, mình đặt tên cháu là Trần Toàn Thắng đấy”.
Những ngày làm phóng viên ở Ban Công nghiệp Báo Tiền
phong tôi được nhà báo Lê Văn Ba tận tình giúp đỡ. Ông là người cẩn thận, chịu
khó và rất nghiêm khắc với phóng viên. Bài viết của chúng tôi ông đọc rất kỹ, sửa
từng câu, từng chữ, mỗi lần tôi được cử đi viết bài ông dặn xuống cơ sở sản xuất
phải gặp ai, hỏi han điều gì, về nhà phải báo cáo cụ thể trước khi viết.
Có thể là do tuổi trẻ, do là người học văn và say làm
thơ nên tôi chỉ thích viết những gì mà tôi cảm thấy xúc động, cảm thấy mới, thấy
lạ…Và điều đó có vẻ không phù hợp lắm với không khí báo chí thời bấy giờ, cuối
những năm bảy mươi của thế kỷ trước nên nhiều bài viết của tôi bị loại, không
được đăng và bị cắt bỏ rất nhiều…
Tuy tôi nhận thấy nhà báo Lê Văn Ba là người có quan
điểm chính thống, có lẽ trong thâm tâm ông không thích lắm những người lơ mơ
thơ phú và hơi ngang như tôi. Nhưng, tôi thấy ông rất tận tình, quan tâm chỉ bảo
từng ly từng tý, tôi cũng rất thích đến chơi với gia đình ông, vợ ông, các con
ông đều sống chân tình…
Tôi cũng có được điều may mắn là công tác trong một cơ
quan báo chí có nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Bùi Ngọc Tấn, Lê Minh
Khuê, Sơn Tùng, Phan Cung Việt… Nhà văn, nhà báo Lê Văn Ba gần đây mới được kết
nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, nhưng ông đã say mê văn chương từ lâu, đã có nhiều
truyện ngắn, nhiều phóng sự được bạn đọc đón nhận. Ông là người Hà Nội nên luôn
đau đáu với những vấn đề của Thủ đô suốt bao năm qua.
Khi tôi lên thay ông phụ trách Ban Công nghiệp rồi Ban
Kinh tế của Báo Tiền phong, ông chuyển sang làm ở Báo Đại Đoàn Kết. Sau khi nghỉ
hưu, ông về làm Phó Tổng biên tập Báo Người cao tuổi. Cả cuộc đời của nhà văn,
nhà báo Lê Văn Ba luôn gắn bó với đề tài người Hà Nội. Ông đã có được nhiều tư
liệu quý, nhiều vốn sống phong phú, nhiều nghị lực vượt khó để khi ông với tư
cách là một nhà văn, ông đã làm được những cuốn sách công phu, đáng nể như cuốn
“Nhà văn Việt Nam trong nhà tù quân xâm lược” mà tôi vừa nói đến.
Nguồn: Văn Nghệ Công An