Nữ sĩ Trúc Linh Lan không cầu kỳ trong câu chữ nhưng lại
có nét sáng tạo riêng trong thơ. Thi cảm của chị đằm thắm dịu dàng luôn có những
liên tưởng độc đáo. Đặc biệt hình ảnh về mùa thu thường xuất hiện trong thơ chị
như một điểm tựa cho niềm vui và nỗi buồn sáng tạo.
TRÚC LINH LAN đêm
trầm tích thương nhớ đồng bằng
VƯƠNG TÂM
Tôi đọc thơ của nữ thi sĩ Trúc Linh Lan đã lâu nhưng gần
đây mới gặp chị tại Cần Thơ. Trúc Linh Lan có tên gốc Khơ Me là Thạch Thị Liễu
(sinh năm 1953) tại Trà Ôn (Vĩnh Long). Chị là nhà thơ người dân tộc trưởng
thành sau ngày thống nhất đất nước. Trúc Linh Lan đã từng làm Chủ tịch Hội Nhà
văn Cần Thơ hai khóa liền. Hiện chị vẫn đương nhiệm Chi hội trưởng Chi hội Nhà
văn Việt Nam tại Cần Thơ.
Khi mới gặp nữ sĩ Trúc Linh Lan tôi sực nhớ đến ngay
câu thơ trong bài “Đêm trầm tích”. Chị rất ngạc nhiên khi tôi chậm rãi đọc:
“Sóng biển xô bờ tím ngát mỗi hoàng hôn/ Tôi trải tim mình biếc cả mùa thơm/
Theo tiếng sáo, cọng rơm vàng, phù sa, cánh cò của mẹ/ Mang câu dân ca, giọng
hò điệu lý/ Theo chân người lam lũ đất phương Nam”. Đó là những câu thơ mang
phong cách tượng trưng khi hòa tan những phức điệu và hương sắc trong cảm xúc về
quê hương đồng bằng Nam Bộ. Và cũng bắt đầu từ đây biết bao ký ức tràn về với nỗi
thương nhớ khôn nguôi.
Trúc Linh Lan chợt nhớ đến những đêm đi dậy học trên
cánh đồng sình lầy. Thỉnh thoảng những đợt pháo kích của giặc Mỹ lại dội về
ngày ấy. Tất cả xuống hầm trú ẩn sau đó cô trò lại thắp đèn soi tỏ từng mặt chữ.
Chính những đêm như thế đã tạo nguồn cảm hứng cho nữ sĩ sau này: “Con vạc thả
ngang trời một nhịp song lang/ Chèo khua sóng nỗi niềm lau sậy/ Ai hò trên sông
mênh mang đến vậy/ Tôi ôm đàn gẩy khúc ly tao”. Sự từng trải của cô giáo Thạch
Thị Liễu ngày nào vẫn còn ám ảnh với những số phận dân nghèo lam lũ khai phá đất
phương Nam. Chị lại nhớ những đêm chăm sóc trò ốm tại lớp học mái lán lộng gió
mù sa. Thầy cô đều thức để soạn bài và học những điệu hò điệu lý quê hương. Đó
là những đêm tránh đạn bom và ăn bo bo thay gạo. Tất cả đều nuốt nước mắt vào
trong để lên lớp với niềm tin yêu cho một tương lại tươi sáng. Nữ sĩ đã từng nhập
đồng với những hình ảnh: “Ba chống chiếc xuồng nước mắt rưng rưng/ Trắng đồng
mênh mông/ Tuổi thơ rét mướt/ Màu xanh của lá ửng vàng trong nước/ Tập sách
trôi phập phều con chữ oặn đau…” (Những triền đê vỡ).
Sau ngày giải phóng chị vẫn dậy học và quên cả tình
yêu và tuổi trẻ. Cuộc sống mưu sinh đầy sóng gió. Sau này chị đã hình dung lại
sự bộn bề và cam go trong cuộc sống: “Ngày mỗi ngày cánh đồng vẫn lầm lũi bóng
ba tôi/ Người nông dân cả đời không quen mặc áo/ Đôi chân chai sần không hề
quen dép/ Đi suốt một kiếp người/ Chỉ mong con cái/ Thành nhân” (Giấc mơ gõ cửa
đời người). Thơ Trúc Linh Lan đậm đà chất phù sa của châu thổ đồng bằng sông Cửu
Long. Viết về quê hương chính là viết về đời sống của sông Hậu Giang quê chị.
Thơ của Trúc Linh Lan đầy nhạc tính với những nhịp điệu sông nước mênh mang:
“Đêm mắc võng hát vài câu vọng cổ/ Đôi mắt ai lúng liếng mé hiên nhà/ Trăng rơi
xuống bồng bềnh trên sông nước/ Điên điển vàng rực ấm cả bờ xa” (Đêm hành quân
nghe câu dân ca Nam Bộ). Cuộc sống cô giáo Thạch Thị Liễu một thời sôi động và
dâng hiến hết mình. Là người Khơ Me chị còn được cử sang công tác tại đất nước
bạn Campuchia. Sau đó có thời chị còn làm hiệu trưởng trường trẻ mồ côi ở Cần
Thơ. Tuổi xuân trôi đi như vó ngựa thời gian. Chị không hề nuối tiếc cùng với
niềm vui con chữ trên những chặng đường gian nan.
Và một sự kiện bất ngờ ập đến khi Hội Văn nghệ Hậu
Giang ngày ấy được thành lập (1986). Bạn bè đồng nghiệp đã kéo chị về với thi
ca. Vậy là sau những bài thơ được in vào năm 1968 của thời học sinh sinh viên,
cái tên Trúc Linh Lan xuất hiện trở lại. Công việc xây dựng hội của những thành
viên đầu tiên ngày đó có Trúc Linh Lan được coi là bước ngoặt sự nghiệp văn
chương. Từ đây Trúc Linh Lan trở thành Phó chủ tịch Hội Văn nghệ kiêm Phó tổng
biên tập Tạp chí Văn nghệ Hậu Giang. Và cũng từ đây thơ Trúc Linh Lan lãng mạn
hơn với những hình ảnh đẹp: “Con chim thả cọng rơm vào trang thơ/ Câu thơ ửng
vàng màu giáp hạt/ Tôi bắt gặp giọt sương long lanh ánh mắt/ Tình yêu từ đó bay
lên” (Đêm trừ tịch)
Chặng đường mới đã làm cho thơ Trúc Linh Lan càng đằm
thắm hơn và tràn ngập những nỗi niềm tin yêu cuộc đời. Trúc Linh Lan say mê và
lại quên đi ngày tháng và luôn sống trong cô đơn trầm lắng. Mãi cho đến đầu thập
niên 90 Trúc Linh Lan mới gặp mối tình đầu của mình. Trái tim yêu được đánh thức
khi tuổi đã cập kề 40. Cuộc gặp gỡ tình cờ với nhà thơ Võ Minh Đường đã làm
thay đổi cuộc đời của nữ sĩ cô đơn. Họ cưới nhau và sinh được con trai trong niềm
hạnh phúc vô bờ. Nhưng trớ trêu thay sau đó nhà thơ Võ Minh Đường mắc bệnh hiểm
nghèo và mất đi trong nỗi khốn khó khôn lường (2004). Nữ sĩ Trúc Linh Lan lại
tiếp tục sống trong nỗi cô đơn bất tận. Chị ở vậy nuôi con trong ngôi nhà ở tạm
tại trường trẻ mồ côi.
Và chính từ đây thi ca của Trúc Linh Lan có sự đổi mới
rất kỳ lạ. Đó là những câu thơ ẩn chứa nỗi đau sâu lắng và hướng thiền trầm
luân. Chị luôn tìm lại mình trong những ký ức làm day dứt lòng người. Với tâm sự
trong “Vầng trăng từ đó không rằm”, Trúc Linh Lan viết: “Anh vội đi không từ biệt/
Vầng trăng từ đó không rằm/ Ly rượu tình xưa vẫn đợi/ Bóng người đã khuất mù
tăm”. Cũng từ đây những “Khoảnh khắc chiêm bao” luôn ám ảnh tâm hồn nữ sĩ: “Em
quay về trời đã vào đông/ Một mình hát lý vọng phu không ai đối đáp/ Cầu vồng bảy
màu đã thành mây trắng bay”.
Theo thời gian những vầng trăng không rằm tuy vẫn ám ảnh
tâm hồn thi nhân nhưng những cung bậc cảm xúc đã bừng lên những ánh sáng mới lạ.
Sự “Nhận diện cuộc chơi” của Trúc Linh Lan đem lại cái nhìn sáng tỏa: “Tôi tự
tát vào mặt mình để bớt ảo tưởng/ Cuộc đời đầy hoa hồng và bánh ngọt/ Tôi tát
vào giấc mơ tôi/ Để thức tỉnh khi mình còn ngủ mơ trong hy vọng”. Những nỗi niềm
hương xưa đã trở lại. Nữ sĩ đã trở thành “Người đàn bà ngồi nhặt ký ức” với sự
xóa nhòa cảm giác vầng trăng không rằm u sầu. Cảm giác sáng trong nỗi cô đơn
khi chị đã viết: “Người đàn bà ngồi đếm lá rơi/ Đếm sương/ Đếm gió/ Đếm tuổi
xuân rụng dần/ Sợi tóc thở dài/ Ngọn nến rơi lệ/ Ba mươi con trăng rằm”. Nhưng
rồi nữ sĩ lại ước muốn: “Tôi gói tuổi vào cơn mơ/ Để nghĩ mình chưa kịp già/
Níu tuổi thanh xuân ở lại/ Dù một ngày để xót xa” (Người đi nhặt hương xuân).
Hy vọng cuộc đời đã mở ra trước mắt với sự trưởng thành của con trai làm cho
người mẹ luôn mơ: “Tôi khỏa ước mơ vào đêm trừ tịch/ Ước mơ nõn biếc/ Nghe Nguyên
đán tìm về”. Và đâu đó trong những “Ký ức rỗng” mà nữ sĩ vẫn luôn luôn lắng
nghe lòng mình. Bởi nỗi cô đơn vẫn luôn gần kề: “Biết người ta của người ta/ Mà
sao đau đớn xót xa thế này/ Thôi thì tình lỡ sẩy tay/ Em ngồi mơ nắng những
ngày sa mưa”.
Tôi nghe nói mới đây Trúc Linh Lan cùng con trai mua
được một căn hộ chung cư ở thành phố. Họ đã rời căn nhà tạm nhưng trong lòng nữ
sĩ vẫn không bao giờ vơi nghĩ đến sự ra đi của người chồng. Chị đã bộc bạch nỗi
niềm: “Thuyền một mình hát lý lênh đênh/ Chông chênh quá giữa biển buồn số phận/
Con dã tràng xe một đời lận đận/ Nợ duyên mình lỡ câu hát phu thê” (Ta nhắm mắt
trong đêm nguyệt thực). Nỗi nhớ day dứt về cuộc tình dở dang luôn làm cho nữ sĩ
thể hiện nỗi xót xa trong những câu thơ: “Anh đâu rồi, con đường nhỏ buồn tênh/
Em lạc lõng kết từng sợi mưa ngày cũ/ Níu tháng bảy mưa ngâu, thương tháng mười
mưa lũ/ Nỗi nhớ bồng bềnh/ Rét mướt/ Vườn xưa” (Vườn xưa).
Nữ sĩ Trúc Linh Lan không cầu kỳ trong câu chữ nhưng lại
có nét sáng tạo riêng trong thơ. Thi cảm của chị đằm thắm dịu dàng luôn có những
liên tưởng độc đáo. Đặc biệt hình ảnh về mùa thu thường xuất hiện trong thơ chị
như một điểm tựa cho niềm vui và nỗi buồn sáng tạo. Cuộc sống cô đơn luôn đồng
vọng với gió và nắng thu heo may: “Chông chênh giấc mộng/ Lá rơi che kín mùa
thu” (Ký ức rỗng). Dường như những thi phẩm hay nhất của Trúc Linh Lan đều ẩn
chứa hương thu cùng những giấc mơ trăng. Đến nay chị đã xuất bản bốn tập thơ.
Thu và trăng luôn biểu tượng cho nỗi buồn cô liêu day dứt trong tâm hồn nữ sĩ.
Đó là những câu thơ ám ảnh lòng người: “Mùa thu ửng ước mơ/ Heo may gom mây trắng/
Ta nhặt từng sợi nhớ/ Buộc rằm một mùa trăng” (Cảm xúc tháng-năm). Và khi vào
ngày sinh nhật của chị vào tháng tám nỗi buồn lại dâng lên: “Phơi trăng trong
say một giấc tự tình/ Nâng chén rượu này ta uống một mình”.