Đoàn
Phú Tứ chủ yếu là một nhà viết kịch, đồng thời là một diễn viên kịch nói tài
hoa, ở cái thời mà kịch nói là một thể loại rất mới của văn học Việt Nam. Bỗng nhiên ông lạc vào thơ bằng một bài thơ, trước sau chỉ một
bài thơ ấy: “Màu thời gian”.
THỜI GIAN MÀU GÌ?
LƯƠNG DUY CÁN
Đầu
năm 1955, ngẫu nhiên đưa đẩy, tôi được học Văn với một người thầy bất ngờ: nhà
văn Đoàn Phú Tứ. Chỉ có vài tháng. Tôi còn nhớ: thầy khá gầy gò nên số giờ thầy
vắng cũng khá nhiều.
Cứ
như một thứ nhân duyên trong đời. Nếu không có chuyện Hà Nội được giải phóng
thời đó thì tôi làm gì có dịp ra Hà Nội và làm học trò nhà văn Đoàn Phú Tứ kia
chứ!
Thật
ra thì lúc học ở Huế, tôi đã được biết nhà văn Đoàn Phú Tứ qua bộ sách “Nhà văn hiện đại” của nhà văn Vũ Ngọc
Phan và quyển “Thi nhân Việt Nam” của nhà văn Hoài Thanh...
Bỗng nhiên ông lạc vào thơ bằng một bài thơ,
trước sau chỉ một bài thơ ấy: “Màu thời gian”.
Vậy
mà bài thơ “đi lạc” ấy bỗng trở thành một hiện tượng. Ông được Hoài Thanh giới
thiệu và bình luận bằng một thái độ trân trọng đặc biệt. Nhạc sĩ Nguyễn Xuân
Khoát còn đem phổ nhạc!
Rồi
“Màu thời gian” được in vào một tuyển tập có một tên chung khá lạ kỳ: “Xuân Thu nhã tập”! Để
rồi cái nhóm này sẽ được gọi chung và chê bai là nhóm Xuân Thu nhã tập!
(Trong
nhóm này có một người đồng hương của tôi: nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh, một người
sau này là thầy tôi ở đại học : giáo sư Nguyễn Lương Ngọc)
Các
nhà văn nhà thơ hiện thực và cách mạng thời ấy cũng như sau này thì cho họ một
tên gọi ngộ nghĩnh: nhóm thơ “hũ nút”, bởi văn chương của họ giống như cái hũ
đậy kín nút !
Tất
nhiên thời tôi được học với thầy, không ai dám nhắc nhở đến “bài thơ hũ nút”
của thầy. Nhắc đến mà chết à?
Của đáng
tội, hồi ở Huế, đọc quyển “Thi
nhân Việt Nam”, tôi đọc rất kỹ những
lời bình, cả những lời chú giải của Hoài Thanh, nhưng càng đọc thì càng không
hiểu gì cả. Đúng là hũ nút mà, hiểu làm sao được! Vậy
mà số phận xô đẩy, tác giả bài thơ ấy lại trở thành thầy giáo của tôi.
Ngày
nay thì tôi hiểu được, thấm được giá trị của bài thơ, nhưng muộn quá rồi chăng
?
Bài
thơ của thầy như sau
MÀU
THỜI GIAN
"Sáng
nay
Tiếng
chim thanh
Trong
gió xanh
Dìu
vương hương ấm thoảng xuân tình
Ngàn
năm không lạnh nữa Tần phi
Ta
lặng dâng nàng
Trời
mây phảng phất nhuốm thời gian
Hương
thời gian thanh thanh
Màu
thời gian tím ngát
Tóc
mây một món chiếc dao vàng
Nghìn
trùng e lệ phụng quân vương
Trăm
năm tình cũ lìa không hận
Thà
nép mày hoa thiếp phụ chàng
Duyên
trăm năm đứt đoạn
Tình
một thuở còn hương
Hương
thời gian không nồng
Hương
thời gian thanh thanh
Màu
thời gian không xanh
Màu
thời gian tím ngát"
Sau
thời gian ngắn ngủi, tôi không hề gặp lại thầy Đoàn Phú Tứ.
Vậy
mà, thật bất ngờ, hè năm ấy, đang chiến tranh, tôi có dịp đạp xe ra Hà Nội.
Tranh thủ một lần rảnh việc, tôi đi xả hơi ở cái quầy bia hơi xế cửa Hội Văn
Nghệ trên phố Trần Hưng Đạo. Ngày ấy, bia hơi là một thứ ơn trời, ai cũng ao
ước.
Tôi
đứng xếp hàng và may mắn nhận được những hai vại bia, hí hửng bước tìm chỗ ngồi
bên vỉa hè!
Thế
rồi bất ngờ nhìn lên: trước mặt đúng là thầy Đoàn Phú Tứ bên cái ly vại đã cạn
sạch bia. Chờ gì nữa, đưa ngay một vại bia đến trước mặt thầy, kèm theo lời tự
giới thiệu mình là học trò cũ của thầy. Có lẽ thầy không nhớ chút nào cái anh
chàng đen nhẻm bụi đường này từng là học trò cũ. Nhưng quan trọng gì chuyện đó
. Thầy có vẻ rất khoái khi uống hết vại bia.
Tuy
thế, thật may cho tôi đã có lúc gặp lại thầy, vì sau đó một thời gian, ở Quảng
Bình toé lửa, tôi đọc trên một góc nhỏ một tờ báo: nhà thơ Đoàn Phú Tứ đã rời
xa thế giới.
Càng
may mắn hơn cho tôi, sau đó, đọc được một bài viết của một nhà văn, một học giả
thì đúng hơn, nhà văn Thanh Nghị, tác giả một công trình đồ sộ: Từ điển
Pháp-Việt.
Ông
Thanh Nghị kể một câu chuyện có thể nói là rất kỳ lạ. Chuyện rằng:
Ngày
ấy, Đoàn Phú Tứ còn trẻ măng, viết và có chân trong toà soạn một tờ báo khá lớn
ở Hà Nội, trong đó có Thanh Nghị.
Không
biết vì sao mà ông Đoàn bỗng mê say một cô học trò trường Nữ học Hà Nội.
Thời
ấy, học trò trường Nữ học hiếm hoi lắm, toàn là con cưng nhà giàu. Cách đi đến
trường của các cô ấy cũng hiếm. Mỗi ngày, ngồi trên một chiếc xe kéo, gọi là xe
nhà, do một người nhà là phu xe, kéo đến tận cổng trường . Hết buổi, chiếc xe
nhà đến tận cổng rồi kéo một mạch về tận nhà. Đố ai mà tiếp cận để tỏ tình!
Ngày đó, màu áo của nữ sinh trường ấy là một màu đặc biệt: màu tím !
Vậy
mà chàng trai Đoàn có cách của minh. Mỗi buổi chiều, trước khi có tiếng trống
báo hết giờ, chàng từ toà soạn đạp xe đến đứng chờ trên hè phố, phía bên kia
cổng trường. Cô gái bước lên xe nhà. Xe được kéo chạy, về phía Tây xa xa, phía
các biệt thự phố Thuỵ Khuê.
Chàng
trai cứ thế mà từ từ đạp xe theo sau.
Rồi
xe vào cổng nhà. Cổng đóng lại. Chàng trai dựng xe bên cạnh hàng rào và chờ.
Chờ mãi cho đến lúc phía cửa sổ trên gác có ánh đèn. Có lẽ cô gái đã cơm nước
xong, đến lúc học bài. Cuối cùng thì ánh đèn đã tắt. Chắc cô ấy đi ngủ.
Vậy
là xong, chàng trai có thể yên lòng, lên xe, đạp trở về.
Không
biết bao nhiêu lần, lần nào cũng vậy.
Nhưng
rồi có một lần, chờ mãi không thấy anh xe nhà đến đón, cũng không thấy cái màu
tím từ sân trường bước ra. Lại cứ chờ, lại cứ đứng im bên cổng chờ một ánh đèn.
Cuối
cùng, dò hỏi thì biết tin: mỹ nhân đang ốm, mà chắc là ốm nặng.
Theo
lời khuyên của bạn, trong đó Thanh Nghị, mấy người cùng đến, lấy danh nghĩa bạn
bè, xin được vào thăm người ốm.
Nhìn
thấy toàn những khuôn mặt trí thức, tử tế, gia đình vui lòng mời vào, rồi cho
người vào phòng trong báo cho con gái biết. Chờ một lúc thì người nhà ra , xin
cám ơn lòng tốt của bạn bè nhưng xin được cáo lỗi: đang ốm mệt, không thể tiếp
được.
Có lẽ
đúng vậy: thà nép mày hoa thiếp phụ chàng!
(Để
chàng thấy ta lúc tiều tụy xấu xí thế này thì có khác chi: yêu nhau thì cũng
bằng mười phụ nhau!)
Rồi
không lâu sau, cô gái đẹp vĩnh viễn xa rời thế gian!
Còn
đưa lời tỏ tình với ai đây nữa?
Chỉ
có bài thơ này thôi.
Không
biết bài thơ này thuộc trường phái nào? Tôi chịu.