Nếu như xa
xưa, con người hay đặt ra câu hỏi: “Ta từ đâu đến và ta sẽ đi đến đâu?” thì
trong “Ở đây, lúc này”, Nguyễn Đình Minh đặt thêm câu hỏi: “Ta là ai và ta còn
gì?”.
BAO GIỜ NƯỚC RỬA CHO TRONG NỖI BUỒN?
(Đọc tập thơ “Ở đây, lúc này”, NXB Hội Nhà văn 2022)
ĐẶNG
HUY GIANG
Trong bài “Tôi không cần mộ chí” viết vào
năm 1933 của thế kỷ trước, B. Brecht - người được mệnh danh là “con sư tử thi
ca” của Đức và thế giới đã viết: “Tôi không cần mộ chí/ Nhưng nếu các bạn cần
bia mộ cho tôi/ Tôi mong trên đó viết những lời/ Anh ta đã đưa ra kiến nghị/
Chúng tôi đã nhận lời...” Và “chỉ bấy nhiêu chữ thôi/ Chúng ta cùng vinh dự”. Rõ
ràng, B. Brecht đã chọn cho mình một tấm bia mộ khác biệt, có một không ai, mà
nội dung chỉ là “anh ta” (cuộc sống, thời đang sống) “đưa ra kiến nghị”, còn “chúng
tôi” (trong đó có B. Brecht) “đã nhận lời” để “chúng ta cùng vinh dự”. Nêu thế
để rút ra: Người viết phải có trách nhiệm gắn bó với thời đang sống, không thể
tách thời đang sống. Chỉ có như thế, thi ca mới trả lời được câu hỏi: Thời anh
đang sống là thời đại nào?
Tất nhiên, quan niệm về mối quan hệ hữu cơ
mang tính qua lại giữa nghệ thuật và cuộc sống, cùng những đòi hỏi của cuộc sống
đối với nghệ thuật như đã nêu ở trên, không chỉ có ở B. Brecht. Cái hơn và cái
hay của B. Brecht là ở chỗ: Ông là người chỉ ra thật đích đáng vấn đề này bằng
thơ.
Với tập thơ mới này, “kiến nghị” không phải
do “anh ta”, mà do Nguyễn Đình Minh đưa ra là: Phải tập trung tạo hình tượng về
“cơn bão covid”, “cơn bão máu chiến tranh” và “những cơn bão trong lòng người”.
Đấy là đòi hỏi những tự thân của người viết. Rồi tất cả đều phải thoả mãn và
đáp ứng cái tinh thần “Ở đây, lúc này” theo chánh niệm nhà Phật.
“Ở đây, lúc này” có ý đồ nghệ thuật rõ
ràng, có bố cục chặt chẽ và được chia thành ba phần, gồm: “Trong mắt bão”, “Chiến
tranh, tại sao?”, “Nhà thương trái tim”.
Theo tôi, Covid 19 và cơn bão Covid 19 là một
điểm nhấn quan trọng của “Trong mắt bão” và “Ở đây, lúc này”. Nó khiến cho “Trời loang mây hoang mang/ Mặt
đất thì nín thở/ Bước chân Corona...” (“Ngày vỡ vụn”); “Trăm sắc quốc kỳ bợt bạt,
ngừng bay/ Mỗi mái nhà thành một tâm địa chấn.../ Mỗi mảnh thời gian đều thấm nỗi
đau thương” (“Nghĩ trong đêm đại dịch”). Rồi nó để lại hậu quả ngay tức khắc:
“Giam mình giữa nhà tù không có chấn song” (“Song sắt vô hình”); “Khói phủ đen
trên nóc nhà thiêu xác/ Tiếng chuông nức nở gửi trời xanh” (“Viên đạn buồn thứ
nhất”); “Tình yêu cũng rời ghế đá/ Nụ hôn bây giờ thành vũ khí sát
thương”(“Trong gió tử thần”); “Những nghĩa địa chập chùng thành giá/ Như cánh rừng
huân chương của một chủng vi trùng” (“Trong gió tử thần”)...Và sự ngăn cách,
chia tách, phân ly ấy xuất hiện ngoài
trí tưởng tượng của con người đến xót xa, nao lòng:
Đêm nay
con lại gác đầu làng
Chiếc
barie như một dấu trừ
Xuyên qua
con đường quê vốn ồn ào tấp nập
Vầng trăng
khuyết hình con mắt
Treo lưng
trời buồn tênh...
Khẩu trang, màu trắng và đặc biệt là màu
trắng của khẩu trang như ôm trùm và choán lên tất cả. Đó là “Chôn nụ cười trong
những chiếc khẩu trang” (“Viên đạn buồn thứ nhất”); “Có một nỗi đau giấu sau mặt
khẩu trang” (“Mặt trời vẫn thức gọi Sài Gòn”); “Thương Thăng Long trắng khẩu
trang” (“Tháng giêng, ngày 16”)...
Không dừng ở hiện tượng, Nguyễn Đình Minh xộc
thẳng vào bản chất của vấn đề. Trước hết, tác giả truy tìm nguyên nhân bằng
cách đặt ra câu hỏi: “Lỗi tại con người hay lỗi tại thiên nhiên?” (“Ngày vụn vỡ”)
và cho rằng: Cũng có thể “con người chối bỏ mẹ thiên nhiên” (“Nghĩ trong đêm đại
dịch”), sống quá lý trí mà không biết “đặt hồn mình lên tay mẹ thiên nhiên”
(“Loài vi trùng bất tử”), lãng quên “quyền năng thiên nhiên” nên “đã bắn vào sự
ngạo cuồng của mình” (“Viên đạn buồn thứ nhất”)...Rồi Nguyễn Đình Minh lại đặt một
câu hỏi nữa như một lời nhắc nhở, cảnh báo:
Hình như lần
đầu tiên
Con người
mới nhớ ra mình bé nhỏ?
Đó là những câu thơ sắc sảo đầy ngẫm ngợi,
suy tư...khiến độc giả không thể không ngẫm ngợi, suy tư và chia sẻ cùng. Nói
theo cách của nhà thơ Pháp Ê-lu-a thì chúng như từ chân trời một người để đến với
chân trời tất cả vậy. Ở một chừng mực đáng kể, những câu thơ trên còn chứng tỏ
tri kiến và góp phần cảnh tỉnh con người.
Ở phần “Chiến tranh, tại sao?”, Nguyễn
Đình Minh có một “Chiều Bắc Á” thật nặng nề và đầy âu lo: “Chiều Bắc Á bây giờ
chớm thu rồi/ Nhưng không gian toàn lửa/ Thảng thốt tiếng bầy chim trĩu cánh
thiên di..”; một châu Âu không yên và đổ vỡ: “Châu Âu những ngày này thiếu lửa
thừa bom.../ Âm thầm tiếng niềm tin sụp đổ/ Máu ròng ròng/ Trên nhãn mác văn
minh” và trong “Mriya”, Nguyễn Đình Minh tin “lòng tham” và “quyền lực” “Có thể
kéo sập bầu trời/ Và những lỗ đen vẫn ký sinh giữa lòng người/ Hút máu sinh
linh như hút rác”...
Nếu như xa xưa, con người hay đặt ra câu hỏi:
“Ta từ đâu đến và ta sẽ đi đến đâu?” thì trong “Ở đây, lúc này”, Nguyễn Đình
Minh đặt thêm câu hỏi: “Ta là ai và ta còn gì?” (“Chiến tranh mềm”). Thiết
nghĩ, con người ở thời ta sống mới mong manh và nhiều nguy cơ tiềm ẩn làm sao!
Có vẻ như những cơn bão Covid, những cơn
bão chiến tranh không mạnh bằng những cơn bão lòng người. Bằng chứng là trong
phần “Nhà thương trái tim”, Nguyễn Đình Minh sở hữu những câu thơ đớn đau khiến
độc giả phải động tâm, tạo ra hiệu ứng bất ngờ. Có thể thực chứng: “Giả dối vẫn
đeo tang cho niềm vui bằng nước mắt/ Và dùng nụ cười điểm cho mỗi đớn đau” (“Xin hãy chọn”); “Một
cân cá chứa ngàn cân giông bão/ Một con tép nhỏ nhoi/ Có khi đổi mạng người”
(“Một thoáng vạn chài”); “Chiều rách bươm trên lưng lũ dã tràng/ Gió uốn vầng
trăng cong hình dấu hỏi/ Đêm vạn chài phấp phỏng mảnh lưới suông” (“Thông điệp
biển”); “Thấy phiên chợ như phai hồn nhạt vía/ Bao nhiêu là thơm thảo đã bay
đi/ Và hoá một nốt trầm/ Trong cung đàn ngày mở cửa/ Cánh đồng quê, mầm độc đã
đâm chồi” (“Mua ngày xưa nơi chợ Tết”)...
Trong “Ở đây, lúc này”, Nguyễn Đình Minh
còn sở hữu những câu thơ thật hay, thật đẹp, tựa như ông đang trở về mình, trở
về thế giới của riêng mình: “Người nghệ sĩ gieo ước mơ trên cát/ Bằng máu trái
tim mình/ Và tưới nó lên xanh bằng nước mắt” (“Những thông điệp cát”); “Bà nội
run run đỡ cả thời viễn cổ/ Gói nghìn năm trong một miếng trầu cay” (“Những
làng tre về đâu?”)...
Có thể nói, ở một mức độ phân thân nào đó,
cho dù Nguyễn Đình Minh là “Luôn thuận theo tự nhiên thong thả sống/ Như sóng
sau nổi lên/ Bình thản sóng trước chìm” (“Nghĩ trong mùa lá rụng”), nhưng ông vẫn
là người nặng lòng trước cuộc sống và trong cuộc sống. Bài thơ “Lời người xa xứ”
thể hiện thân phận không hẳn chỉ của người tha phương... Phần kết có những câu
lục bát đáng nhớ như là sự bừng rộ, lay thức của tâm trạng:
Sông quê
muôn thuở chảy xuôi
Lênh đênh
ngọn sóng mình tôi ngược dòng
Đem buồn đục
đổ lòng sông
Bao giờ nước
rửa cho trong nỗi buồn?
Riêng “Nhà thương nào...cho thơ” là một tứ
thơ độc đáo, lạ lẫm, đầy phát hiện. Nguyễn Đình Minh khẳng định: Chỉ có trái
tim là nơi trú ngự của thơ và mới là nơi chữa lành cho thơ, đem lại sự yên bình
cho thơ. Tứ thơ có năm câu rất đáng được đánh dấu khuyên vào đó:
Trái đất
mênh mông thờ ơ
Vẫn thiếu
một mái nhà trú ngự
Thơ đành nương
vào trái tim thi sĩ
Trái tim
thành nhà thương, thành nơi tri kỷ
Điều dưỡng
những câu thơ.
Và trong khi trả lời câu hỏi: Thời đại anh sống là thời đại nào? Nguyễn Đình Minh đã trả lời được câu hỏi: Anh là ai? Làm được điều ấy trong thơ gần như cùng một lúc, nhìn chung không phải dễ.