Con người Tiến Thanh khi trút bỏ tấm áo hành chính, khỏi
vai ông Tổng biên tập đương kim (với không ít áp lực, căng thẳng, cả "mệt
quá thân ta này" nữa, hẳn rồi) là một người đàn ông gần gụi, yêu bạn bè,
yêu kỷ niệm.
NGUYỄN TIẾN THANH TRONG MIỀN PHIÊU LÃNG
PHÙNG GIA THẾ
Paul Valéry nói, đại ý, thơ là một ngôn ngữ riêng
trong ngôn ngữ chung của loài người, làm thơ tức là làm thế nào cho ngôn ngữ trở
thành nghệ thuật. Nguyễn Tiến Thanh có khác, anh làm thơ, không làm chữ. Nói
khác đi, sáng tác thơ với anh là sự tạo sinh và không gian hóa cảm xúc bằng
ngôn từ. Điều này cũng có nghĩa, chữ trong thơ anh, theo mạch cảm xúc ấy, tự
nhiên được gọi về, không cần cân đong, gò đẽo.
Sáng tác và có thơ công bố từ năm 17 tuổi, song mãi tới
khi chạm vào tuổi ngũ thập, Nguyễn Tiến Thanh mới in thơ, và in liền hai tập
("Chiều không tên như vết mực giữa đời", NXB Văn học, 2021 và
"Loạn bút hành", NXB Hội Nhà văn, 2021). Như thế, thơ, với Tiến
Thanh, theo nghĩa nào đó, là một sự chơi. Chơi với kỷ niệm, với bạn bè. Chơi với
con người nghệ sĩ của mình. Tất nhiên, ai cũng hiểu, sự chơi đó phải bằng sự tử
tế, tài hoa, hoàn toàn không phải lối dụng thơ để làm sang.
Gặp Nguyễn Tiến Thanh ở ngoài đời, dù lần đầu hay khi
đã thân quen đều luôn cảm nhận ở anh sự hào sảng, thân tình. Con người Tiến Thanh
khi trút bỏ tấm áo hành chính, khỏi vai ông Tổng biên tập đương kim (với không
ít áp lực, căng thẳng, cả "mệt quá thân ta này" nữa, hẳn rồi) là một
người đàn ông gần gụi, yêu bạn bè, yêu kỷ niệm.
Đến nhà Nguyễn
Tiến
Thanh, thường bắt gặp hình ảnh ông chủ chốc lại chạy ra chạy vô kiếm tìm, lục lọi
xem trong bếp, trong tủ có gì hay mang ra đãi bạn bè. Bạn văn tụ tập quán nhỏ
ven đường, câu thường được nghe là "lát Tiến Thanh sẽ đến". Nguyễn Tiến Thanh lịch lãm mà không bóng bảy,
từng trải lại phảng phất chút trẻ thơ (tôi hay đùa anh là "sát thủ mang
gương mặt trẻ thơ"). Và, khi thần lưu linh và nghệ thuật nhập hồn, anh thường
phiêu diêu với Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Từ Công Phụng…, đưa bè bạn trở về
khung trời hoa mộng ngày xưa…
"Chiều không tên như vết mực giữa đời" và
"Loạn bút hành" của Nguyễn Tiến Thanh tuy mang những nét riêng về chủ
ý, suy tưởng và phong cách, song vẫn có thể nhận ra những mẫu số chung, cái làm
nên một Nguyễn Tiến Thanh tài tử và tài hoa, như ta biết.
Thực tiễn cho thấy, bằng phương pháp phân tích nội
quan, hoàn toàn có thể tách việc thẩm bình thơ ra khỏi con người tiểu sử nhà
thơ. Bằng chứng ở đây là, chỉ qua phương pháp thống kê cơ học, có thể nhận thấy
mảng từ vựng trong thơ Nguyễn Tiến Thanh chạm ngay và chạm sâu vào ký ức:
"đi giữa những cơn mơ", "đi qua mùa nhớ", "bụi đời dĩ
vãng", "giấc cô miên"… "Chiều không tên như vết mực giữa đời"
là những xúc cảm lãng mạn, tinh khôi, phảng phất buồn của chàng trai mới lớn,
kiêu ngạo, bất cần, bụi bặm, và thêm chút "mặc cảm thân phận" đặc
trưng của nam nhi thời ấy, dĩ nhiên rồi: "Ta nghèo may túi ba gang/ Đựng
dăm mộng ước, vài trang thơ tình/ Nghe lòng nắng chếch mưa xiêu/ Hoang vu gió
thổi nghiêng chiều, vắng em" (Lục bát tuổi trăng tròn).
"Chiều không tên như vết mực giữa đời" là một
không gian thơ đầy huyễn mộng xen lẫn những "vụng dại" của tuổi hoa
niên nay chỉ còn trong niềm nhớ. Không phải ngẫu nhiên, khi in thơ, Tiến Thanh
giữ nguyên bút tích của ngày xưa. Anh thậm chí chụp in kèm cả những bài thơ
chép sổ. Như một kỷ niệm, một niềm tín mộ, một nâng niu. Bởi nó đúng là khuôn
hình, bản ngã, xúc cảm của anh, và rộng hơn, của thời anh sống: "Chiều
không tên như vết mực giữa đời/ Em ngắt nắng xem hoàng hôn rớm máu/ Cơn đau ấy
- anh xin - đừng ẩn náu/ Mưa một mùa nước mắt mấy mươi năm" (Điều đó dĩ
nhiên rồi).
Đọc Nguyễn Tiến Thanh, thấy ngôn ngữ thơ anh không chỉ
được cảm nhận bằng thanh âm vật lý, mà bằng cả thị giác và tưởng tượng. Các
danh từ, tính từ chỉ màu sắc hình họa, cảm xúc ("trắng", "bạc",
"tím", "tím biếc chân trời", "heo may",
"hoang vu", "vai gầy", "áo em mỏng", "ngọn cỏ
mùa thu", "bạc đầu"...), từ ngữ chuyển đổi cảm giác thường xuyên
được ưu tiên ("mùa mây trắng", "trắng bàn tay",
"thương nhớ cũ","hoàng hôn rớm máu"...). Và cứ thế, như một
hiện thể đặc trưng của "những ngày tháng ấy", thơ Nguyễn Tiến Thanh
đi theo chiều lãng mạn, mộng mơ, lãng đãng sương khói thời gian.
Không gian thơ Nguyễn Tiến Thanh thường xuất hiện hình
ảnh một khách bộ hành cô độc trong cuộc miên di. Các cụm động từ như "khất
thực", "hành khất", "đi qua mùa mây trắng", "đi qua
phố buồn tênh"... cùng mô típ "chỉ thấy", "thì ta" xuất
hiện nhiều lần cho thấy hình tượng tác giả trong thơ Tiến Thanh là kẻ lãng du
luôn khao khát kiếm tìm và mong cầu chút ấm áp của những tháng năm xưa. Chút cô
đơn, thất tình, lãng mạn của chàng thi sĩ trẻ như tiếng vọng ngân vang từ thơ
Nguyễn Tất Nhiên, Hoàng Nhuận Cầm…, có chăng, thì cũng không lạ, bởi nó cũng
như tiếng vọng của người thơ trong thơ mới lãng mạn, nhạc tiền chiến, trong những
bài bô-lê-rô hay trữ tình buồn: "Giờ còn gì trong ngôi nhà mùa thu/ Em đi
vắng ta thì không đến kịp/ Quả đất rộng - tha hồ em cứ khóc/ Ngôi nhà mùa thu
khép cửa lâu rồi" (Ngôi nhà mùa thu).
Trong cái mẫu số thơ đặc trưng của một thời, có lẽ,
cái riêng của Nguyễn Tiến Thanh bắt đầu từ chất lãng tử, phiêu ngạo riêng có của
anh. Cũng không phải ngẫu nhiên, kiểu chủ thể trữ tình được ưa chuộng nhất
trong thơ Tiến Thanh thời trẻ là chàng trai kiêu bạt, bụi đời lãng tử, cô đơn,
đây đó thoáng chút bóng hình của chủ nghĩa hư vô: "Tôi đi hoài chỉ thấy đớn
đau thôi/ Tôi đi hoài chỉ thấy đích xa xôi/ Đời vãi muối vào lòng tôi rách nát"
(Chặng đường tuổi 20)…
Nguyễn Tiến Thanh lớn lên ở thời đói khổ nhưng mơ mộng.
Chủ thể trữ tình trong thơ anh, do thế, đến mãi sau này vẫn thảng thốt hằng đêm
viễn mộng: "Anh mất ngủ, ngàn đêm phiêu bạt/ Uống cô miên, khất thực mưa
phùn" (Quỳnh hương); "Anh đi qua mùa mây trắng/ Gặp ngày tháng cũ bỏ
quên" (Lữ hành).
Điều ngạc nhiên là, xen cài với những bài tình đầu,
Nguyễn Tiến Thanh đã có những xúc cảm trữ tình thế sự già dặn: "Bạn ở xa
cây cũng gọi phong ba/ Biết mây trắng phía kia là Tổ quốc/ Con sóng vỗ một niềm
tin thao thức/ Giọt máu loang trên cột mốc chủ quyền" (Gửi Trường Sa); hay
cảm thức chạm đến trái tim về mẹ, một đối tượng trữ tình vừa phổ quát, vừa rất
đỗi riêng tư: "Sẽ chẳng bao giờ ai hiểu hết được đâu/ Giọt nước mắt mẹ rơi
giữa ngày chiến thắng/ Mây đã trắng khăn tang chồng chết trận/ Trăm cuộc đời
chung một hướng vọng phu" (Sân ga chiều đừng mưa)…
Nếu không gian thơ Nguyễn Tiến Thanh trong "Chiều
không tên như vết mực giữa đời" là chàng trai đa cảm, trong sáng, pha chút
khói sương lãng mạn thì trong "Loạn bút hành", thi sĩ tập trung thể
hiện hình tượng người lữ thứ và cuộc hành hương tâm hồn. "Loạn bút
hành", do thế, vừa siêu thực, vừa phảng phất tiếng xưa với "Thương
hà", "điêu linh", "ly biệt", "đoạn trường",
"chí lớn", "tráng sĩ", "người ra đi"…Trong
"Loạn bút hành", hình tượng chủ thể trữ tình là trang nam tử lãng du,
phiêu ngạo, "đầu trần đi giữa nắng nhân gian". Mô típ "ta vốn",
"ta chẳng" thoạt nghe tưởng bất cần, song, thực tình "ta"
đã gục ngã vì em, hiện nguyên hình là kẻ lụy tình: "Tráng sĩ một đi, ta
ngoảnh lại/ Môi chiều/ Tóc mộng/ Mắt sơn khê".
Đọc Nguyễn Tiến Thanh, bên cạnh trạng thái
"đi" gắn với cuộc di trú tâm hồn, còn xuất hiện trạng thái "ngồi"
gắn với những suy niệm thế nhân. Với Nguyễn Tiến Thanh, thơ không đủ làm cho
gương mặt thi nhân trở nên nhàu nát, song vẫn có một khoảng trống mênh mông
trong "thế giới hoang vu": "Để chiều nay chốn cũ ta ngồi/ Nghe
hoang mang một mùa trong tiền kiếp" (Chốn cũ).
Có điều đặc biệt là, trong "Loạn bút hành",
bên cái tôi trữ tình giàu chất thế sự, và ngay cả khi "những cuống rạ cảm
xúc bị cắt sát gốc", thơ Nguyễn Tiến Thanh vẫn nổi lên hình tượng chàng
lãng tử "tóc giang hồ bay theo lá du cư", phiêu bạt trên miền xa thẳm
với cỏ hoang lối cũ, cô miên, niệm khúc, quán nửa khuya: "Mưa nắng trĩu
vai, bụi đời du tử/ Anh hoang vu như gió hoang đàng" (Chiều thật buồn
riêng của anh thôi); "Môi siêu thực, mắt đa chiều/ Ném hư vô nhớ vào phiêu
lãng trời/ Trăng lơ mơ, gió bụi đời/ Cùng đêm và gã dở người làm thơ"
(Ném hư vô nhớ vào phiêu lãng trời)...
Sau bốn năm đèn sách, nhân dạng ông đồ ít nhiều tĩnh tại
đã không thắng được con người lãng tử ưa phiêu bạt, Nguyễn Tiến Thanh rời vị
trí giảng viên tổng hợp văn khoa chuyển sang làm báo, một công việc phiêu lưu,
nhiều áp lực, mạo hiểm nhưng cũng có nỗi vui riêng. Đi qua những cánh đồng đầy
gió, đi qua mùa mây trắng thuở hoa niên, cũng là lúc thi nhân nhìn ra sợi xanh
sợi bạc, thấy hun hút một niềm tiếc nhớ khôn khuây: "Tháng Ba xa hút hồng
hoang tuổi/ Năm mươi ngồi đợi tóc phai đời/ Nếu xưa mây trắng đừng bay vội/ Tôi
đã bây giờ thôi nhớ … tôi" (Ngũ thập). Chiếc nhiệt kế của tâm trạng,
theo thời gian càng thấm đượm cảm thức buồn vui thế cuộc, "chênh vênh vực
thẳm nhân sinh": "Quá nửa đời lạc lối/ Mơ những chuyện hoang đường/
Ngoảnh về - hoang vu tuổi/ Tóc vương đầy bão giông" (Tự thú).
Nguyễn Tiến Thanh yêu thơ song không chăm chú về thể
cách kỹ thuật trong thơ. Anh viết phóng khoáng, tự nhiên, theo dòng cảm xúc.
Trong tổng số gần 60 bài thơ đã in có 11 bài lục bát, 3 bài năm chữ, 6 bài tám
chữ, một vài bài thơ văn xuôi, còn lại là sự xen cài pha trộn linh hoạt của kiểu
thơ 7-8-9 chữ tự do, khoáng đạt. Trên nền cảnh trục ngữ đoạn phổ biến, trục kết
hợp của Nguyễn Tiến Thanh rất phong phú, làm thành nét độc đáo tài hoa của
riêng anh. Bên những "miên trầm", "cô miên, "trầm
miên", "bảng lảng mây", "mịt mù mưa", "dằng dặc
bão", thi sĩ không ngần ngại chen lấn những khẩu ngữ hiện đại rất thú vị,
góp phần mang lại màu sắc mới cho thơ: "Vãi lều chưa - một tiếng
đàn"; "Anh sợ vãi những chiều xa lặng lẽ"...
Thực tiễn cho thấy, mỗi hình thái, thể dạng thơ có khả
năng thu hút và làm sinh thành một kiểu bạn đọc riêng. Thơ Nguyễn Tiến Thanh
cũng vậy. Đó trước hết là kiểu thơ dành cho những người lãng mạn, yêu kỷ niệm,
yêu những ngày tháng cũ. Tiến Thanh say mà tỉnh. Chất lãng mạn, lãng du không
khiến những suy tư nhân thế và trách nhiệm công dân của anh khuất lấp. Nhưng Tiến
Thanh cũng tỉnh mà say. Bởi có lẽ, thơ mãi mãi là chân trời huyễn mộng để anh
được sống tận cùng với “bản lai diện mục” của mình. Không phải ngẫu nhiên, Nguyễn
Tiến Thanh thường tập hợp bạn bè, hoặc tham gia các cuộc tụ tập văn chương để
vượt thoát khỏi những mỏi mệt xác thân, để được chơi và chơi cùng với những tài
hoa trong miền phiêu lãng.
Nguồn: Văn Nghệ Công An