Văn
mạch xuyên suốt của “Vương triều Tiền Lý”
bao gồm “Nam
Đế Vạn Xuân”,
“Triệu
Vương phục quốc”,
“Lý
Đào Lang Vương” và “Lý
Phật Tử định quốc” chính là tinh thần Phật giáo hộ quốc
đã được đóng đinh và nhất quán trong suốt mấy nghìn trang sách của nhà văn
Phùng Văn Khai.
Thấy gì qua 2000 trang sách về VƯƠNG TRIỀU TIỀN LÝ?
PHẠM MINH QUÂN
Suốt hai mươi năm, nhà văn Phùng Văn Khai
một mực chuyên tâm lịch sử. Nhà văn hoặc cùng các đoàn nghiên cứu, văn nhân miệt
mài điền dã đình, đền, chùa, miếu; hoặc mải miết bôn ba khắp nơi tham gia tổ chức
các hội thảo khoa học đều là về danh nhân lịch sử. Công việc của nhà văn lúc
nào cũng cuồn cuộn như mây, mà xem ra việc chuyên tâm viết tiểu thuyết lịch sử
vẫn không phút nào sao nhãng.
Trong
tâm thức và tinh thần ấy, Phùng Văn Khai đã dốc toàn bộ trí tuệ, sức lực và thời
gian của mình, từng bước từng bước, từng trang từng trang tường minh lịch sử bằng
văn chương thấm thoắt đã hai mươi năm. Âu cũng là một chặng đường cần lao kiêu
hãnh.
Về
Phùng Vương và Ngô Vương, các nhà nghiên cứu, các Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ,
giới văn bút trưởng lão và bạn văn đồng thời đã có nhiều ý kiến, bài viết, nhiều
bạn sinh viên, học viên cao học đã chọn để làm khóa luận tốt nghiệp, luận văn
Thạc sĩ cũng là tấm lòng ưu ái với lịch sử, với văn chương của Phùng Văn Khai. Đó
như tia nắng bình minh buổi sớm mai lấp lánh. Như ngọn gió mát lành buổi đầu
thu xôn xao lay động. Như ngọn lửa ấm đêm đông nơi tiền đồn cương vực xa xôi. Tất
thảy đều là khích lệ nhà văn trong đường
xa dặm thẳm nghề văn bút trùng trùng. Những tấm lòng ấy, thanh âm ấy quả hữu
ích xiết bao với người sáng tạo luôn đơn độc một mình. Ở lúc này đây, rõ ràng
tiên sinh là người hạnh phúc. Và cái duyên ắt đến, cái nợ ắt trả dường như luôn
chất chứa trong tim óc nhà văn.
Cách
đây quãng mười năm, bỗng thấy nhà văn Phùng Văn Khai đi đình, đền, chùa, miếu
chăm chỉ khác thường. Viết xong “Ngô Vương”
đã lâu, vẫn thấy nhà văn tuần tiết nào cũng tới Cổ Loa, lên Đường Lâm, sang Cổ
Pháp dâng hương, trò chuyện không dứt với các vị thủ đền, thủ đình, các nhà
nghiên cứu lịch sử, nhất là các bô lão địa phương. Có chuyến mời nhiều người
cùng vân du điền dã. Lại có khi một mình một bóng một mạch đi - về. Riêng chùa
Cổ Pháp, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, nhà văn trong vòng một
năm đi về luôn bảy, tám bận.
Bốn
năm sau Phùng Văn Khai hoàn thành bộ Vương triều Tiền Lý 4 tập hơn 2000 trang.
Trong
dòng chảy vương triều Tiền Lý 58 năm, việc khu xử, sắp xếp, thể hiện thấu đáo,
tổng hòa nhịp nhàng mà tuyệt không xa rời lịch sử, không minh họa lịch sử, không
làm méo mó lịch sử quả khó như việc bắc thang lên trời. Xưa nay văn - sử bất
phân cũng chỉ là một câu nói để người đời viện dẫn lúc mình gặp khó. Đó còn là
sự đơn giản, lười biếng của văn nhân.
Một
điều chính yếu cũng là văn mạch xuyên suốt của “Vương
triều Tiền Lý” bao gồm “Nam
Đế Vạn Xuân”,
“Triệu
Vương phục quốc”,
“Lý
Đào Lang Vương”,
“Lý
Phật Tử định quốc” chính là tinh thần Phật giáo hộ quốc
đã được đóng đinh và nhất quán trong suốt mấy nghìn trang sách của nhà văn
Phùng Văn Khai. Tinh thần Phật giáo được thể hiện sinh động từ bước chân lẫm chẫm
của cậu bé Lý Bí bảy tuổi trong đêm đông vắng lặng một mình trước mộ mẫu thân
cùng với chúa sơn lâm bờm trắng nghe câu kinh tiếng mõ lốc cốc của sư phụ tới
hình ảnh Triệu Việt Vương xuống tóc nơi chùa Bến trong một đêm đông cổ trấn Luy
Lâu.
Các
cuộc luận đàm Phật pháp diễn ra trùng điệp, nối nhau, khi giữa vương triều Vạn
Xuân ngày khai quốc, khi nơi chiến trận muôn tên nghìn giáo thập diện mai phục
vẫn là tinh thần Phật giáo hộ quốc mà tiêu biểu là lục đại hộ pháp thiền phái
Luy Lâu dòng thuần Việt. Tiên sinh quả đã coi tâm Phật chính là trung tâm ngòi
bút của mình, từ đó hòa chung việc đạo, việc đời, việc nước, việc quân tốt tươi
nhuần nhụy. Song hành với mạch
truyện về cuộc đời và huân nghiệp của các vị hoàng đế, quân
vương Vương triều Tiền Lý là những diễn giải và đối thoại về Phật
giáo.
Phùng Văn Khai đã mở rộng các vấn đề trọng đại
trong lịch sử dân tộc khi nối kết vai trò của Phật giáo trong đời sống tinh thần
người Việt. Phật giáo trong luận giải của tiên sinh như là thứ văn hóa kiến thiết đời sống tinh
thần người Việt cổ xưa - đời sống chính trị, xã hội, đời sống văn hóa, tâm
linh. Những miêu tả về lịch sử, giáo lý, đặc biệt sự ảnh hưởng lớn lao của đạo
Phật luôn thấm đẫm trong từng trang viết.
Trong
“Vương
triều Tiền Lý”, đồng đều bốn cuốn luôn nổi lên tinh
thần văn hóa hộ quốc. Văn hóa ở đây sâu thẳm từ thời thượng cổ, từ những lễ hội
dân gian nơi thôn cùng xóm vắng tới nghi lễ quốc gia, nghi vệ triều đình trong
quốc điện Vạn Xuân. Một đất nước, một quốc gia với nền quốc thống không thể nào
tách rời văn hóa.
Đó
là vẻ đẹp của các vị lão trượng đầu tóc bạc phơ được mời đến kinh thành tham vấn
việc quân, việc nước. Đó là việc sắp xếp tú nữ cầm dải lụa đỏ buộc lên trán
tráng đinh thắng giải đua thuyền. Đó là những sới vật từ vua chí dân đều thượng
võ xe đài trước khi phân cao thấp. Đó là tinh hoa bách nghệ được xiển dương, trọng
dụng và sử dụng khi trùng tu quốc điện. Đó là những cuộc tha bổng tù nhân, cấp
cho lương thuyền trở về cố quốc. Đó là hịch văn đánh vào quân tâm, nhân tâm để
bớt đi máu xương sĩ tốt phải đổ xuống vô cớ vì binh lửa chiến tranh.
Một
trong những vẻ đẹp của “Vương triều Tiền Lý”
mà điển hình là “Lý Phật Tử định quốc”
đã mạnh dạn khẳng định việc mở mang bờ cõi về phương Nam là một tất yếu lịch sử.
Đã có một khoảng thời gian dài, chúng ta dường như né tránh hoặc khuôn chừng sự
thực trên. Chúng ta một mặt phải đương đầu với bành trướng bá quyền từ phương Bắc,
một mặt lại phải cương quyết mở mang cương vực về phương Nam. Những điều tưởng
như mâu thuẫn ấy đã giằng xé và phân hóa tư tưởng của chúng ta từ rất lâu, còn
kéo mãi tới hôm nay cũng là lẽ thường tình. Song, lịch sử tất phải là một lịch
sử trọn vẹn và trước tiên phải là một sự thực lịch sử như nó đã diễn ra. Lý giải
những vấn đề trên, ngòi bút của nhà văn đã phải vượt qua biết bao gian nan trắc
trở.
Bộ
sách được viết liền một mạch, tổng hòa các vấn đề kinh tế, chính trị, quân sự,
văn hóa, bản sắc dân tộc đã đồng loạt hiện lên, khi dồn dập nối nhau như sóng vỗ
bờ, khi ẩn tàng lặng lẽ chìm khuất thẳm sâu hút hắt, thì vẫn nguyên ở đấy, một
tấm lòng trung trinh với đất nước, với nhân dân.
Bốn
vị hoàng đế, quân vương của “Vương triều Tiền Lý”,
quả thực các ngài ấy đều đã cống hiến đến tận cùng, tuyệt không màng danh lợi.
Có vị mở đầu đã cơ cực mà kết thúc càng rất đỗi bi ai. Quốc chủ Vạn Xuân Lý Bí
bốn tuổi mồ côi cha, bảy tuổi mồ côi mẹ, mười mấy năm tu tập ăn chay niệm Phật,
hai mấy năm bôn ba nếm mật nằm gai, lên ngôi quốc chủ vẫn dép cò áo nâu vào
chùa dâng hương niệm Phật và giây phút cuối đời là một khung cảnh khiến người đời
rơi lệ. Triệu Việt Vương - tùy tướng của ngài vâng di mệnh đánh giặc phục quốc
suốt nhiều năm ròng không một phút giây nào lơ là việc quân việc nước. Triệu Việt
Vương không chỉ vâng mệnh quốc chủ Lý Bí đòi lại quốc thống cho Vạn Xuân mà còn
được nhị thánh Chử Đồng Tử - Tiên Dung ban cho móng rồng cũng là giao trọng
trách việc khơi nguồn độc lập. Triệu Việt Vương thân là tướng soái, tay dẫn trọng
binh, bên ngoài là thánh tướng cổ kim hiếm có bên trong là quốc vương đầy ứ khuất
khúc triều đình càng là thách thức ngòi bút nhà văn. Không phải vô cớ phải để
cho Triệu Vương xuống tóc. Viết tới những dòng đó, hẳn Phùng Văn Khai cũng đã
nhiều đêm nhỏ máu mắt, nén nỗi đau để việc nước vẹn toàn.
Công
việc của người viết sử bằng văn chương là làm sống lại lịch sử, biến những sự
kiện lịch sử vốn mang tính chất khô khan trong sử sách thành những câu chuyện lịch
sử sống động và khơi mở, luận giải, đối thoại với những vấn đề được đặt ra từ lịch
sử, qua đó truyền cảm hứng và tình yêu dân tộc đối với độc giả. Bộ “Vương
triều Tiền Lý” với
63 hồi trên 2.000 trang in thực sự là một trường thiên tiểu thuyết đồ sộ. Phùng
Văn Khai đã dẫn dắt người đọc theo bước chân hành trình của các bậc đế vương
triều Tiền Lý nhằm hiện thực hóa ý chí và sức mạnh của muôn dân Vạn Xuân. \
Đọc
tiểu thuyết của ông, độc giả như được sống lại một thời kỳ oanh liệt của lịch sử
hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của cha ông. Dẫu câu chuyện đã qua từ rất
lâu, song những bài học mà nó mang lại chưa bao giờ là cũ. Bài học về truyền thống
yêu nước chống ngoại xâm, về tinh thần tự chủ, tự cường, tự lực, về ý chí, khát
vọng hòa bình, hạnh phúc, về sức mạnh của sự đoàn kết muôn dân, về tài năng, đức
độ, tầm nhìn của người lãnh đạo, về bản sắc văn hóa, phong tục tập quán… vẫn
luôn đồng hành với nhiều thế hệ dù ở bất kỳ thời đại và sự chuyển vần nào.
“Vương triều Tiền Lý” xứng đáng là bản anh hùng ca về ý chí, sức mạnh và văn hóa Việt trong tiến trình lịch sử. Bộ tiểu thuyết của Phùng Văn Khai xứng đáng có một vị trí trong tiến trình vận động, đổi mới thể loại với nỗ lực phục hiện/ hưng lối viết truyền thống bằng cảm thức lịch sử sâu sắc và lối kể chuyện hấp dẫn.