Cảm nhận của đạo diễn
Đặng Nhật Minh về đêm 30/4 ở dinh Độc Lập: Nhìn quanh sân tôi thấy rất
nhiều ánh lửa bập bùng trong đêm. Các chiến sĩ đang thổi lửa nấu cơm. Một số
đang tắm giặt ở vòi phun nước giữa sân. Một vài anh lính trẻ cưỡi thử Honda chạy
vòng vèo trong sân.
Những kỷ niệm khó quên….
ĐẶNG NHẬT MINH
Đầu tháng 4/1975,
cả nước hồi hộp theo dõi tin tức chiến sự từ miền Nam gửi ra. Xưởng Phim truyện
đóng tại số 4 Thụy Khê, Hà Nội
được lệnh trên động viên tất cả đội ngũ làm phim tổ chức thành 4 đoàn làm phim
tài liệu lên đường tham gia chiến dịch.
Tôi được phân làm đạo diễn của một đoàn gồm hai anh
Dương Đình Bá và Thẩm Võ Hoàng làm quay phim, anh Tô Thi làm biên kịch. Ba đoàn
kia là đoàn Hải Ninh - Hoàng Tích Chỉ, đoàn Trần Vũ - Bành Bảo và đoàn Bùi Đình
Hạc - Lưu Xuân Thư. Riêng đoàn Hải Ninh được quay phim màu còn tất cả đều quay
đen trắng.
Lúc này ta đã giải phóng tới Nha Trang rồi, nên tuy gọi là đi B, nhận quân trang quân
dụng như người đi B, nhưng chúng tôi không phải lo trèo đèo lội suối mà có thể
yên tâm lên đường trên 4 chiếc xe Bắc Kinh mới toanh chạy thẳng theo quốc lộ I.
Trước khi đi chúng tôi được nghe đồng chí Cục trưởng Phan Trọng Quang truyền đạt
chỉ thị dặn dò của đồng chí Tố Hữu. Tôi còn nhớ đinh ninh lời truyền đạt như
sau: Các đồng chí có thể gặp các văn nghệ sĩ trong ấy. Họ có thể đi ô tô mà các
đồng chí thì đi bộ. Nhưng các đồng chí đừng tự ái, hãy dang tay ra với họ trên
tinh thần đoàn kết, hòa hợp dân tộc”.
Có nghĩa là lúc
đó, đầu tháng 4/1975
ở trên còn dự kiến tới một khả năng ta có thể vào Sài Gòn trong bối cảnh của một
Chính phủ liên hợp các bên. Tôi không quan tâm tới chuyện sẽ vào Sài Gòn trong
bối cảnh nào. Tôi chỉ biết chắc chắn rằng trong chuyến đi này tôi sẽ được về Huế
- quê hương mà tôi xa cách đã 25 năm.
Ngày đến Huế,
tôi cố lục trong ký ức để tìm đường về nhà mà không cần hỏi đường và tôi đã tìm
về đúng ngôi nhà xưa. Bác tôi cùng bà con họ hàng ngạc nhiên, mừng rỡ vô cùng,
không ngờ tôi lại được trở về sớm như vậy. Cách đây 25 năm khi chia tay ra đi,
những người thân trong gia đình có ai ngờ ngày trở về chỉ có mình tôi. Không
còn mẹ tôi, không còn cha tôi, không còn em gái tôi... Sau khi cha tôi mất, một
thời gian sau bà nội tôi cũng qua đời. Chẳng còn ai để bà tôi phải chờ đợi nữa
nên bà đã ra đi.
Khi biết tôi bây giờ làm nghề đạo diễn phim thì cả nhà
lặng đi,
không còn biết nói gì hơn,
vì thất vọng. Không một ai trong gia đình có thể nghĩ rằng tôi lại làm cái nghề
mà họ cho là kỳ quặc này... Ai cũng đinh ninh rằng tôi phải là một nhà khoa học,
hoặc một giáo sư bác sĩ như cha tôi. Mãi sau bác tôi mới thở dài nói một câu để
an ủi cả nhà: Nhưng thôi, cháu nó có làm cái nghề này thì mới được vào đây sớm
để thăm bà con.
Chúng tôi chỉ ở lại Huế có hai ngày rồi phải đi tiếp.
Vào tới Nha Trang, các đoàn dừng lại để nhận phân công đi các mũi. Đoàn Hải
Ninh - Hoàng Tích Chỉ và đoàn Bùi Đình Hạc - Lưu Xuân Thư nhận nhiệm vụ vào Tây
Ninh gặp Trung ương cục miền Nam để rồi theo mũi chủ công của quân ta tiến vào
Sài Gòn. Đoàn anh Trần Vũ lên Buôn Ma Thuột, còn đoàn tôi vào khu V.
Anh Trần Vũ sau khi nghe phân công xong than thở với
tôi: Thế là hết mộng vào Sài Gòn. Riêng tôi được về Huế thế là thỏa mãn lắm rồi,
bây giờ đi đâu cũng được, không thắc mắc gì cả. Hai đoàn Hải Ninh, Bùi Đình Hạc
rẽ lên Trường Sơn để đi Tây Ninh. Đoàn Trần Vũ đi lên Buôn Ma Thuột, còn đoàn chúng tôi lăn bánh xuôi theo quốc
lộ I vào Phan Rang gặp Khu ủy khu V. Khi tới nơi trình giấy giới thiệu xong,
các đồng chí trong khu ủy cho biết tình hình diễn biến rất nhanh. Lệnh của trên
là phải giải phóng Sài Gòn trước 1/5. Họ khuyên chúng tôi đừng bỏ lỡ cơ hội
này.
Buổi sáng ngày 28/4, khi vào sân bay Thành Sơn định quay một
vài hình ảnh, tôi thấy một không khí thật rộn rịp khẩn trương. Sân bay đang chuẩn
bị đón máy bay của phi công Nguyễn Thành Trung từ miền Bắc bay vào để ném bom
dinh Độc Lập.
Tôi hội ý với anh em trong đoàn không dừng lâu ở Phan Rang nữa mà đi dần về
phía Sài Gòn.
Trưa ngày 30/4,
khi nằm ở Phan Thiết bật đài lên, tôi nghe tin Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh
cho binh sĩ hạ súng để chờ gặp đại diện của Mặt trận giải phóng. Thời cơ đã đến.
Chúng tôi lập tức lên xe thẳng tiến về Sài Gòn.
8 giờ tối ngày 30/4, xe chúng tôi đã lăn bánh trên xa lộ
Biên Hòa. Tôi có cảm tưởng xe đi quá chậm. Càng gần tới Sài Gòn xe càng đi chậm
hơn vì bị tắc nghẽn. Cuối cùng chúng tôi đã lọt được vào thành phố sáng rực ánh
đèn. Một cảm giác choáng ngợp bàng hoàng đến nghẹt thở làm chúng tôi không ai
nói với ai một câu nào. Mãi lâu sau anh Lăng lái xe mới cất tiếng phá tan bầu
không khí im lặng: “Nào
ông Minh. Ông cứ đòi đi ngay. Bây giờ tới Sài Gòn rồi. Đi đâu đây?”.
Quả tình tôi cũng không biết đi đâu bây giờ trong cái
thành phố xa lạ mênh mông này. Nhưng rồi trấn tĩnh lại, tôi mạnh dạn nói: “Tôi có biết một
nơi. Đó là dinh Độc Lập.
Tôi có xem trên ảnh. Bây giờ ta đến đó”.
Sau một hồi hỏi đường, hết quẹo trái rồi lại quẹo phải,
cuối cùng một cô gái phóng Honda đi trước tự nguyện dẫn đường cho chúng tôi đến
dinh Độc Lập.
Anh Dương Đình Bá xuống xe tìm ngưởi để trình giấy giới thiệu của Ban Thống nhất
Trung ương nhưng không có ai tiếp vì lúc này chưa có ai chỉ huy ở đây cả. Các
sư đoàn ai đến trước vào trước, ai đến sau vào sau, mỗi đơn vị chiếm lĩnh một
góc sân trong dinh Độc lập.
Riêng tòa nhà chính do trung đoàn xe tăng canh gác, đó
là trung đoàn vào dinh Độc Lập
đầu tiên theo đường quốc lộ I. Họ cấm chúng tôi không được lên tầng hai nơi
giam giữ nội các Dương Văn Minh, còn ngoài ra muốn vào đâu cũng được. Ngước
nhìn lên nóc dinh Độc Lập, tôi thấy cả hai lá cờ Mặt trận: một to, một
nhỏ bay trong gió. Lá cờ nhỏ là lá cờ của chiếc xe tăng đầu tiên tiến vào dinh
Độc lập. Lá cờ to là lá cờ được giao cho cánh quân đánh từ Củ Chi lên mà người
ta tưởng sẽ vào sớm nhất. Nào ngờ mũi xe tăng tiến theo quốc lộ I lại vào đầu
tiên, không gặp trở ngại nào đáng kể. Không một chiếc cầu nào trên quốc lộ bị
đánh sập.
Nhìn quanh sân tôi thấy rất nhiều ánh lửa bập bùng
trong đêm. Các chiến sĩ đang thổi lửa nấu cơm. Một số đang tắm giặt ở vòi phun
nước giữa sân. Một vài anh lính trẻ cưỡi thử Honda chạy vòng vèo trong sân. Tôi
yêu cầu làm việc ngay, nhưng các quay phim cho biết không đủ ánh sáng. Sau một
hồi tìm kiếm, cuối cùng chúng tôi tìm được một bộ đèn pha cầm tay của một phóng
viên quay phim nào đó để lại trong phòng họp báo của dinh Độc Lập. Chiếc đèn pha cầm tay đó đã giúp chúng
tôi quay những thước phim đầu tiên.
Tôi đặt tên phim là “Tháng 5 - những gương mặt” (vì những cảnh quay đó được thực hiện vào
lúc 1 giờ sáng ngày mồng một tháng 5). Về sau tôi được biết sáng hôm 30/ 4, các phóng viên nước ngoài có mặt ở Sài
Gòn được thông báo sẽ có cuộc họp báo quan trọng tại dinh Độc Lập và họ đã tề tựu đông đủ ở đó. Nhưng cuộc
họp báo đã không thành. Chiếc xe tăng đầu tiên của quân giải phóng đã húc đổ cổng
dinh Độc Lập.
Một số phóng viên nhiếp ảnh và quay phim nước ngoài có mặt trong phòng họp đã vội
chĩa ống kính hướng về phía có tiếng xe tăng và đã kịp ghi lại được giây phút lịch
sử này.
Hình ảnh chiếc xe tăng đầu tiên của Quân Giải phóng
húc đổ cổng dinh Độc Lập
đã được một phóng viên Hãng Truyền hình Anh quay được (hình ảnh này đã được
truyền đi khắp thế giới và về sau được đưa vào phim Việt Nam thiên lịch sử truyền
hình của Đài truyền hình Anh). Không một phóng viên nhiếp ảnh quay phim nào của
ta ghi được giây phút có một không hai đó, cho dù quay từ xa, từ phía sau lưng
tới.
Tôi để ý tìm nhưng không thấy các đoàn khác của Xưởng
phim Truyện Việt Nam. Không biết giờ này các anh đang ở đâu? Người đồng nghiệp
duy nhất mà tôi được gặp trong đêm hôm ấy là anh Nguyễn Tự, đạo diễn kiêm quay
phim của Đoàn 559, Tổng cục Hậu cần. Anh cho biết anh đi theo cánh quân từ Củ
Chi lên.
Đêm ấy tôi nằm một mình trong Lễ đường ở tầng 1 của
dinh Độc Lập,
lòng bàng hoàng như trong giấc mơ. Thậm chí tôi không hiểu nổi tại sao tôi lại
đang có mặt ở đây, vào giờ khắc lịch sử này. Đêm ấy tôi không sao chợp mắt được.
Tôi nghĩ đến cha tôi, sao người không còn sống để được hưởng cái giây phút có một
không hai này. Tôi thương cha tôi, thương mẹ tôi, thương hàng vạn hàng triệu
người đã ngã xuống suốt dọc chiều dài của đất nước trong hàng chục năm qua. Gần
sáng tôi thấy hai anh Thép Mới và Trần Kiên ở báo Nhân Dân lò dò bước vào Hội trường. Các anh hết
sức ngạc nhiên khi thấy tôi ở đây.
Sáng hôm sau (1/5) Ban Quân quản chính thức tiếp quản
dinh Độc Lập.
Việc làm đầu tiên của Ban Quân quản là ra lệnh cho tất cả mọi người phải tập tức
rời khỏi dinh. Trên nóc dinh lúc này chỉ còn lại một lá cờ duy nhất (lá cờ của
chiếc xe tăng đã được cất đi). Khi ra khỏi cổng dinh tôi thấy đoàn các anh Hải
Ninh và Bùi Đình Hạc đã có mặt ở vườn hoa trước dinh. Đoàn anh Trần Vũ nghe tin
Sài Gòn giải phóng cũng bỏ luôn Buôn Ma Thuột. Mỗi đoàn một việc, tất cả các
máy quay phim đều xả hết tốc lực.
Nhờ tài ngoại giao khéo léo của nhà quay phim Thẩm Võ
Hoàng, từ dinh Độc Lập
đoàn chúng tôi chuyển đến ở tại khách sạn Caravelle, nơi có người quản trị là một
bà người Pháp. Đêm đó trên lầu 9 của khách sạn, chúng tôi đã gặp hầu hết các
phóng viên ngoại quốc đang có mặt tại Sài Gòn. Trong những ngày căng thẳng vừa
qua họ đều rút về đây, nơi được coi là an toàn hơn cả vì khách sạn này là của
người Pháp. Sau giây phút ngạc nhiên trước sự có mặt bất ngờ của chúng tôi, một
vài người lân la đến chuyện trò. Người đầu tiên làm quen với chúng tôi là phóng
viên của Hãng thông tấn Pháp AFP. Ông cho biết tất cả các phóng viên có mặt tại
đây đều có mặt tại dinh Độc Lập
sáng 30/
4.
Hôm sau, chúng tôi được phép trở lại dinh Độc Lập để quay lễ thả các thành viên trong nội
các Dương Văn Minh bị tạm giữ từ ngày 30/4
. Buổi lễ đơn giản, gọn nhẹ dưới sự chủ trì của Trung đoàn trưởng Trung đoàn xe
tăng đầu tiên tiến vào dinh Độc lập. Tổng thống Dương văn Minh nói vài lời ngắn
gọn bày tỏ vinh dự được
làm công dân một nước Việt Nam độc lập (lặp lại ý vua Bảo Đại đã từng nói trong
lễ thoái vị ở Huế tháng 8 năm 1945). Sau đó các vị trong nội các ra về trên những
chiếc xe ôtô nhà đến đón, chờ sẵn ở thềm dinh.
Tôi đứng nhìn đoàn xe sang trọng nối đuôi nhau đi ra cửa, lòng bồi hồi tự hỏi:
Chẳng lẽ mọi việc lại kết thúc đơn giản vậy sao? Có ai hình dung được những gì
sẽ đến sau này, sau cái giây phút thắng lợi ngây ngất đó?
Từ hôm đó, sáng sáng chúng tôi vác máy quay ra đường,
quay bất cứ những gì muốn quay. Nội dung chủ yếu của đoàn nào cũng chỉ xoay
quanh hai chủ đề: Nỗi hân hoan của người dân Sài Gòn vừa được giải phóng và tàn
dư của một xã hội sống dưới ách thực dân kiểu mới. Chúng tôi chạm trán nhau
luôn trong khi quay. Đoàn nào cũng quay các cuộc tuần hành của sinh viên thanh
niên trên đường phố để nói lên nỗi hân hoan, và đoàn nào cũng săn lùng quay những người
tàn tật và hành khất để tố cáo chế độ thực dân.
Các ổ xì ke, gái mãi dâm cũng được quan tâm không kém
vì đấy là những biểu hiện xấu xa của chế độ cũ, không quay nhanh sợ sau này
không có mà quay. Tuy sống trong vùng kiểm soát của chế độ thực dân kiểu mới,
nhưng trong nhiều gia đình mà tôi được tiếp xúc vẫn giữ được những nề nếp truyền
thống của một gia đình Việt Nam. Tôi ngạc nhiên nhìn thấy các em nhỏ khoanh tay
lễ phép chào hỏi những người lớn tuổi, một điều mà ở miền Bắc từ lâu đã không
còn thấy. Ngược lại bà con ở đây cũng không kém ngạc nhiên khi tiếp xúc với những
“Việt cộng” miền Bắc mà theo hình dung trước đó của họ hẳn dữ tợn gớm ghiếc lắm.
Tôi gặp lại Phan Vũ đi theo đoàn biên kịch do Phó giám
đốc Nguyễn Tiến Lợi dẫn đầu vào Sài Gòn. Tôi và Phan Vũ lại có dịp lang thang với nhau như
hồi ở Hà Nội. Có ai quen mời đến nhà, Phan Vũ đều rủ tôi đi. Đi đâu Phan Vũ cũng chỉ có một cái võ duy nhất để
chinh phục cảm tình của mọi người là đọc thơ và cũng chỉ đọc một bài thơ duy nhất “Em ơi, Hà Nội phố”. Bài thơ đó đã làm cảm động rất nhiều người
mà chúng tôi đã gặp, xoá bỏ trong họ thành kiến về những người làm văn nghệ miền
Bắc mà họ cho là khô khan, chỉ biết tuyên truyền hô khẩu hiệu.
Trong những ngày ở Sài Gòn tôi được gặp khá nhiều anh
chị em văn nghệ sĩ ở đây, đặc biệt là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, một người khi còn
ở Hà Nội chúng tôi đều biết tiếng và hâm mộ. Nhưng người đầu tiên trong giới
văn nghệ sĩ mà tôi gặp lại là nữ diễn viên điện ảnh Thẩm Thuý Hằng. Những ngày
chiến sự vừa qua chị cùng chồng là ông Nguyễn Xuân Oánh chuyển đến ở tại khách
sạn Caravelle. Không biết ai trong đoàn phim nói cho ông Nguyễn Xuân Oánh biết tôi là con trai
của Bác sĩ Đặng Văn Ngữ, nên mấy hôm sau ông đem đến cho tôi xem những bức ảnh
cũ chụp trong thời gian ông du học tại Nhật. Tôi hết sức ngạc nhiên thấy có rất
nhiều ảnh ông chụp chung với cha tôi. Ông cho biết khi cha tôi làm nghiên cứu
sinh ở Tokyo thì ông đang học đại học, và cùng sinh hoạt trong Hội Việt kiều do
cha tôi làm chủ tịch.
Sài Gòn hồi đó chưa có nhiều thay đổi như bây giờ.
Thành phố tuy nhộn nhịp nhưng vẫn có những đường phố thật yên tĩnh thơ mộng.
Tôi lên Đà Lạt - một khung trời thật êm đềm lãng mạn khiến tôi phải ngỡ ngàng.
Những buổi chiều mưa, nhìn các cô gái lững thững cầm những chiếc ô mầu đi trên
những đường dốc thoai thoải, tôi có cảm tưởng chiến tranh không bao giờ có mặt ở
đây.
Tôi đã có những kỷ niệm khó quên về Sài Gòn và Đà Lạt
mà không bao giờ tìm lại được nữa.